Blank Space

"Blank Space"
Đĩa đơn của Taylor Swift
từ album 1989
Phát hành10 tháng 11 năm 2014 (2014-11-10)
Phòng thu
Thể loạiElectropop
Thời lượng3:52
Hãng đĩaBig Machine
Sáng tác
Sản xuất
  • Max Martin
  • Shellback
Thứ tự đĩa đơn của Taylor Swift
"Shake It Off"
(2014)
"Blank Space"
(2014)
"Style"
(2015)
Video âm nhạc
"Blank Space" trên YouTube

"Blank Space" là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift và là đĩa đơn thứ hai nằm trong album 1989, album phòng thu thứ năm của cô. Bài hát này được Swift sáng tác cùng với các nhà sản xuất Max MartinShellback. Ý tưởng của bài hát bắt nguồn từ việc truyền thông luôn luôn soi mói chuyện đời tư tình cảm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình tượng cô gái hàng xóm của nữ ca sĩ. Trong "Blank Space", Swift nhập vai một người phụ nữ "có một danh sách dài những người yêu cũ" và hẹn hò yêu đương hết người này đến người khác. Bài hát thuộc thể loại electropop có khâu biên khúc tối giản gồm nhạc cụ tổng hợp synthesizer, phong cách nhịp lấy cảm hứng từ hip hop và phần giọng hát được xử lý theo kiểu xếp lớp.

Hãng đĩa Big Machine hợp tác với Republic Records phát hành "Blank Space" dưới dạng đĩa đơn tại Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 11 năm 2014. Ca khúc trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất năm 2015 và đạt vị trí quán quân tại Úc, Canada, Iceland, Scotland và Nam Phi. Tại Hoa Kỳ, "Blank Space" đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 suốt 7 tuần liên tiếp và đạt chứng nhận 8× Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Nhiều nhà phê bình khen ngợi khâu sản xuất lẫn phong cách sáng tác nhạc của Swift; một số người đã gọi "Blank Space" làm điểm nhấn của album 1989. Bài hát mang về ba đề cử tại lễ trao giải Grammy lần thứ 58, gồm có hai đề cử tại các hạng mục chung: Thu âm của nămBài hát của năm. Rolling Stone xếp "Blank Space" ở vị trí 320 trong danh sách 500 bài hát vĩ đại nhất tái bản năm 2024.

Joseph Kahn phụ trách đạo diễn video âm nhạc của "Blank Space". Trong MV, Swift thể hiện vai diễn là một người phụ nữ ghen tuông điên dại và bắt đầu hành động thất thường sau khi nghi ngờ bạn trai mình không chung thuỷ. Video âm nhạc của bài hát đoạt giải Video nhạc pop xuất sắc nhấtVideo xuất sắc nhất của nữ ca sĩ tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2015. Rolling Stone xếp MV "Blank Space" vào danh sách 100 video âm nhạc xuất sắc nhất mọi thời đại ở vị trí thứ 67. Nhằm quảng bá ca khúc, Swift đã biểu diễn "Blank Space" ở nhiều chương trình âm nhạc và lễ trao giải. Cô đã từng đưa bài hát vào danh sách tiết mục trong ba chuyến lưu diễn thế giới: The 1989 World Tour (2015), Reputation Stadium Tour (2018) và The Eras Tour (2023–2024). "Blank Space" cũng được các nghệ sĩ rock hát lại. Sau vụ tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm với hãng đĩa Big Machine vào năm 2019, Swift tiến hành thu âm lại bài hát này với tên gọi là "Blank Space (Taylor's Version)" và phát hành trong album tái thu âm 1989 (Taylor's Version) của cô vào năm 2023.

Bối cảnh

Sự nghiệp của Taylor Swift vốn được biết đến với phong cách nhạc đồng quê cho đến khi cô phát hành album phòng thu thứ tư, Red, vào ngày 22 tháng 10 năm 2012.[1][2] Nữ nhạc sĩ đã hòa trộn thêm thể loại pop chiết trung với rock trong Red, làm cho nhạc phẩm trở nên khác lạ so với phong cách đồng quê trong các album trước đây của cô.[1] Thông qua quá trình hợp tác với các nhà sản xuất nhạc pop người Thụy Điển Max MartinShellback, công trình sáng tác nhạc của Swift đã góp mặt thêm phần hook thiên hướng pop cũng như những thể loại mới như EDMdubstep.[3][4] Dẫu vậy, Swift và hãng đĩa Big Machine vẫn quảng bá Red là album nhạc đồng quê.[5][6] Chính vì Red mang nhiều màu sắc âm nhạc nên đã khiến cho giới phê bình tranh cãi mổ xẻ gay gắt về chuyện hình tượng nghệ sĩ nhạc đồng quê của Swift, và nữ ca sĩ đã lên tiếng trong một cuộc phỏng vấn với The Wall Street Journal rằng, "Tôi để cho người ta mặc sức gắn thể loại."[7]

Ngoài ra, Swift còn được nhiều người biết đến với biệt danh "cục cưng nước Mỹ" nhờ vào hình tượng cô gái hàng xóm lành mạnh và thực tế.[8][9] Tuy nhiên, do tình sử hợp tan với hàng loạt bạn trai có tên tuổi trong ngành giải trí nên nữ ca sĩ thường xuyên bị nhiều người bôi bác gây ảnh hưởng đến danh tiếng. The New York Times khẳng định vào năm 2013 rằng "lịch sử hẹn hò [của Swift] đã khuấy động một thứ được gọi là sự khởi đầu của phản ứng dữ dội" và đặt ra câu hỏi rằng liệu Swift có đang trải qua khủng hoảng một phần tư cuộc đời hay không.[10] Tampa Bay Times nhận thấy rằng trước khi có 1989, đời sống tình cảm của Swift đã trở thành chủ đề được báo lá cải thường xuyên quan tâm và khiến cho khả năng âm nhạc của cô trở nên mờ nhạt do điều đó.[9] Swift không thích bị giới truyền thông gọi là một "kẻ hẹn hò hàng loạt". Nữ ca sĩ cảm thấy rằng hành động đó đã nhấn chìm công việc chuyên môn của cô và khiến cô trở nên khó xử trước việc đời tư bị công chúng bàn tán.[11][12] Sự soi mói từ các tờ báo lá cải về hình tượng của Swift đã thôi thúc cô sáng tác nên những bài hát cho album 1989 nhằm châm biếm về hình ảnh mà người khác nhìn nhận về cô, bên cạnh những nét lãng mạn cổ điển của nữ ca sĩ.[13]

Swift bắt đầu từ bỏ dòng nhạc đồng quê và chuyển sang sáng tác các bài hát thuần pop cho album phòng thu thứ năm vào giữa năm 2013 trong lúc vẫn còn đang thực hiện chuyến lưu diễn The Red Tour,[14][15] bằng cách khơi gợi cảm hứng từ thể loại synth-pop đến từ thập niên 1980 và nhạc cụ tổng hợp âm đàn, trống vỗ và giọng hát xếp lớp.[a] Năm 2014, album phòng thu thứ năm 1989 của Swift lên kệ, trở thành "album mang tư liệu pop chính thức đầu tiên" theo lời tuyên bố của nữ ca sĩ cũng như album được đặt tên theo năm sinh của cô.[17][18][19] Thông qua 1989, Swift đã cùng với các nhà sản xuất tận dụng nặng nề các nhạc cụ gõ trống lập trình, đàn tổng hợp synthesizer cùng với phong cách thể loại điện tửdance, khiến cho album này tương phản hoàn toàn so với phong cách biên khúc acoustic đến từ các album đồng quê trước kia của nữ ca sĩ.[20][21] Swift và Max Martin trở thành giám đốc sản xuất của 1989.[22] Ở phần ghi công trong Digital Booklet của 1989 (Deluxe Edition) cho biết, Martin và người hợp tác thường xuyên Shellback của ông sản xuất 9 bài hát trên tổng số 16 bài hát, gồm cả "Blank Space".[23]

Nhạc và lời

"Blank Space" là một bài hát đi theo cấu trúc phân khúc–điệp khúc. Nhà âm nhạc học Nate Sloan phân tích rằng phong cách hát ngắt quãng từng chữ trong đoạn phân khúc của Swift như "magic, madness, heaven, sin"[b] đã tạo nên giai điệu bí ẩn và ghê sợ.[24] Chuẩn bị đến điệp khúc, Swift tự nhận chính mình là một "nightmare dressed like a daydream".[c][25] Phần điệp khúc của "Blank Space" cho thấy phong cách sáng tác lời bài hát chân thực của Swift khi dựa vào tình sử của nữ ca sĩ qua lời ca, "Got a long list of ex-lovers / They'll tell you I'm insane / But I've got a blank space, baby".[d] Kết đoạn điệp khúc là khoảng im lặng ngắn ngủi rồi một tiếng bấm đầu bút bi, sau đó Swift hát, "And I'll write your name."[e][26] Tại thời điểm bài hát vừa mới phát hành, câu hát "Got a long list of ex-lovers"[f] đã bị một số khán giả nghe lộn thành "All the lonely Starbucks lovers",[g] khiến cho cộng đồng mạng tranh luận và Starbucks phải lên tiếng phản hồi.[27][28] Thông điệp bí mật của ca khúc sau khi giải mã trong phần ghi chú album 1989 là "there once was a girl known by every one and no one."[h][29]

Năm 2015, Swift tiết lộ với GQ rằng cô đã mường tượng "Blank Space" sẽ là một cái gật đầu châm biếm bản thân trước cách truyền thông nhìn nhận cô là "một người con gái bị khùng nhưng khó cưỡng, nhưng hào nhoáng, nhưng mất trí và nhưng thao túng".[30] Nữ ca sĩ còn thừa nhận bản thân cô đã bị công kích cá nhân đủ dai dẳng rồi mới cảm thấy những chuyện đó trông "rất buồn cười" đối với cô.[30] Cùng năm, Swift phát biểu với NME rằng sau khi "Blank Space" ra mắt, "[phân nửa] công chúng hiểu được trò đùa, phân nửa công chúng nghĩ rằng tôi thực sự đang mang trong mình một sự thật rằng tôi là một kẻ tâm thần".[31] Theo Solan, nhân vật thể hiện trong "Blank Space" có thể không đáng tin cậy. Do đó, để giải thích liệu bài hát có miêu tả chân thực tính cách của Swift hay không là một chuyện nan giải.[32] Trong nhiều ấn phẩm đương thời, các nhà báo nhận định rằng "Blank Space" đại diện cho góc nhìn nhẹ dạ cả tin của 1989 trong câu chuyện tình yêu đổ vỡ và khiến cho album trở nên xa cách với phong cách lãng mạn lý tưởng hóa ở các sáng tác trước kia của Swift.[33][34][35] Một số người khác thì cho rằng Swift đang đùa giỡn với hình tượng và cách thức truyền thông diễn ngôn xung quanh sự nổi tiếng của nữ ca sĩ. Một thời gian sau, sự đeo bám của báo giới đã trở thành cảm hứng cho album phòng thu thứ sáu Reputation (2017) để Swift thổ lộ trải nghiệm công chúng và tin đồn của truyền thông bên trong cô.[36][37]

Martin và Shellback đã áp dụng phong cách phối khí thưa thớt cho "Blank Space" sau khi Swift yêu cầu bài hát phải đánh mạnh vào lời bài hát và thanh giọng.[22] Về phần nhạc, "Blank Space" là một bài hát electropop[38] được sáng tác dựa trên nhịp nhạc tối giản của thể loại hip hop.[39] Đội ngũ sáng tác đã sử dụng đàn tổng hợp synthesizer, bộ gõ bằng âm bập bùng của guitar và giọng hát nền được xếp nhiều lớp.[34][40] Trong đoạn điệp khúc, Swift hát ở thanh âm cao hơn và nhạc nền được đẩy cao trào và nhanh hơn hơn bằng máy đánh trống lập trình.[24] Một số cây viết phê bình khi đó đã so sánh lối sáng tác tối giản của bài hát với âm nhạc của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc Lorde, đặc biệt là trong album năm 2013 Pure Heroine.[25][34][41] Người viết tạp chí Andrew Unterberger cho Spin bảo rằng "Blank Space" là ca khúc bao trùm xuyên suốt phần còn lại của 1989 bằng tính chân thực của nhạc pop những năm 1980 trong khi vẫn kết hợp khuynh hướng hiện đại.[41] Còn Baesley thì cảm thụ rằng phần khí nhạc tối giản "nghe có vẻ tươi sáng và dễ dãi, nhưng vẫn chưa chắc gì dễ tạo ra". Anh nhận xét "Blank Space" đích thực là một đĩa nhạc "pop chuyên nghiệp ở cấp độ vũ khí".[34]

Phát hành và diễn biến thương mại

Ngày 24 tháng 10 năm 2014, 1989 bị rò rỉ cách thời điểm phát hành chỉ còn ba ngày.[42] "Blank Space" là bài hát đầu tiên bị đăng tải sớm lên trang YouTube, dẫn đến hãng đĩa Big Machine phải đi "đánh gậy" sau vài tiếng.[43] Lindsey Weber từ Vulture cho rằng vụ việc rò rỉ này bắt nguồn từ Pháp, vì các tập tin được đăng tải bằng ngôn ngữ địa phương.[44] Vài tuần sau, hai hãng đĩa Big Machine và Republic Records phát hành "Blank Space" làm đĩa đơn thứ hai cho album 1989, sau đĩa đơn mở đường "Shake It Off". Tại Hoa Kỳ, bài hát bắt đầu lên sóng đài phát thanh rhythmic crossover vào ngày 10 tháng 11,[45] hot adult contemporary[46]hit đương đại vào ngày 11 tháng 11 năm 2014.[47] Universal đưa "Blank Space" lên đài phát thanh Ý vào ngày 12 tháng 12 năm 2014,[48] và phát hành phiên bản đĩa đơn CD của "Blank Space" tại Đức vào ngày 2 tháng 1 năm 2015.[49]

Về diễn biến thương mại, "Blank Space" ra mắt ở vị trí thứ 18 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ tuần ngày 15 tháng 11 năm 2014.[50] Đến tuần thứ ba, đĩa nhạc vươn lên top 1 bảng xếp hạng Hot 100 nhờ vào hiệu ứng sau phát hành của video âm nhạc, truất ngôi đầu bảng đĩa đơn mở đường "Shake It Off" của 1989 và lập cho Swift một thành tích trở thành người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng Billboard Hot 100 thay thế bài hát của chính mình ở vị trí số một.[51] "Blank Space" duy trì ngôi quán quân trên Billboard Hot 100 suốt bảy tuần liên tiếp.[52] Tính đến tháng 7 năm 2017, "Blank Space" đã bán được 4,6 triệu bản ở Hoa Kỳ.[53] Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận cho đĩa nhạc 8× Bạch kim dựa trên tổng doanh số tiêu thụ và số lượt phát trực tuyến tương đương đạt tám triệu đơn vị.[54] Trên bảng xếp hạng Hot 100 ngày 19 tháng 8 năm 2023, "Blank Space" quay trở lại vị trí 49 sau khi Swift công bố phát hành 1989 (Taylor's Version) và trình diễn tại buổi hòa nhạc The Eras Tour dẫn đến lượt phát nhạc tăng đột biến.[55] Ca khúc trụ thêm một tuần ở vị trí thứ 46.[56]

"Blank Space" vươn lên vị trí số một tại Úc,[57] Canada,[58] Nam Phi[59] và Scotland.[60] Bài hát đứng đầu bảng xếp hạng Euro Digital Song Sales của Châu Âu do Billboard tổng hợp số liệu,[61] bảng xếp hạng tải nhạc Phần Lan.[62] "Blank Space" đạt top 5 ở nhiều quốc gia như hạng 2 ở New Zealand,[63] Ba Lan,[64] Slovakia,[65] hạng 3 ở Bulgaria,[66] hạng 4 ở Cộng hòa Séc,[67] Ireland,[68] Israel,[69] Anh Quốc,[70] và hạng 5 ở Lebanon.[71] Đĩa nhạc được chứng nhận nhiều đĩa Bạch kim tại Úc (14× Bạch kim),[72] Canada (4× Bạch kim),[73] New Zealand (4× Bạch Kim)[74] và Anh Quốc (3× Bạch kim).[75] Theo Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI), "Blank Space" là bài hát bán chạy thứ tám trong năm 2015 với tổng đơn vị tương đương đạt 9,2 triệu.[76]

Đánh giá chuyên môn

Nhìn chung, "Blank Space" nhận được nhiều bài đánh giá tích cực. Tác giả Shane Kimberline của trang musicOMH đã chọn "Blank Space" là một trong những bài hát xuất sắc nhất của 1989 sau khi album ra mắt.[77] Cây viết Corey Baesley từ PopMatters đã tán tụng bài hát "dễ dàng trở thành một bản nhạc pop xuất sắc nhất năm 2014".[34] Sydney Gore viết cho tạp chí The 405 đã nhấn mạnh "Blank Space" chính là điểm sáng của cả album 1989,[25] và Aimee Cliff từ Fact đã gọi đây là một trong những bài hát "nghe hấp dẫn nhất cho tới nay" của Swift nhờ vào ý tưởng lồng ghép đời sống tình cảm của nữ ca sĩ theo cách phóng đại còn hơn cả đời thực.[78] Nhà phê bình Robert Leedham của tờ Drowned in Sound đã viết rằng Swift đã thành công trong việc thử nghiệm phong cách âm nhạc mới lên 1989 và chọn "Blank Space" làm minh chứng tiêu biểu cho điều đó.[79]

Cây bút đánh giá Kitty Empire của chuyên tin The Observer đã chọn "Blank Space" làm bài hát cho thấy nét trưởng thành trong âm nhạc và lời ca của Swift và gọi đó là một bài hát pop hoàn toàn triệt để với phần cấu trúc sáng tác ấn tượng.[i][80] Viết cho Los Angeles Times, Mikael Wood đã chọn "Blank Space" là một trong những bài hát khá hơn của album nhờ vào tay nghề sáng tác bài hát của Swift.[39] Nhà phê bình Jon Caramanica của The New York Times bảo rằng bài hát cho thấy Swift ở thời kỳ đỉnh cao của cô, qua đó có thể khẳng định được phong thái quyền lực cũng như vị thế nghiêm trang của nữ ca sĩ.[81] Tuy nhiên, tác giả làm báo Andy Gill cho The Independent thì cảm thấy ít hứng thú hơn và gọi "Blank Space" là một bài hát "nổi loạn rập khuôn theo tập thể".[38]

"Blank Space" về sau nhận về đánh giá tích cực hơn. Năm 2019, cây bút Alexis Petridis của The Guardian tuyên bố "Blank Space" là đĩa đơn hay nhất mà Swift từng phát hành và ca ngợi sự thành công của bài hát trong việc lột xác Swift từ một ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác nhạc đồng quê trở thành một ngôi sao nhạc pop nhờ giai điệu dễ xuôi tai và ca từ dí dỏm.[40] Người phê bình lâu năm Rob Sheffield cho Rolling Stone đã viết trong ấn bản những bài hát hay nhất của nữ ca sĩ năm 2023 rằng: "Mỗi một giây của 'Blank Space' đều hoàn hảo."[82] Năm 2020, tạp chí Paste mô tả bài hát là "được chế tác rất hay, hấp dẫn và hài hước một cách hợp pháp" và xướng danh "Blank Space" là bài hát hay nhất trong album 1989.[83] Selja Rankin viết tạp chí Entertainment Weekly cũng mệnh danh "Blank Space" là ca khúc hay nhất trong album và tán dương ca từ đỉnh cao và âm hưởng nhạc pop hấp dẫn những năm 1980 của bài hát.[84] Năm 2023, Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia đã chọn "Blank Space" là một trong 13 bài hát tiêu biểu nhất của Swift đại diện cho sự nghiệp sáng tác ca khúc và nhạc sĩ của cô.[85]

Thành tựu

Rolling Stone xếp "Blank Space" ở vị trí thứ 6 trong danh sách bài hát hay nhất năm 2014,[86] thứ 73 trong danh sách xuất sắc nhất thập niên 2010,[87] thứ 357 trong danh sách 500 bài hát vĩ đại nhất ấn bản 2021,[88] và thứ 320 trong danh sách 500 bài hát vĩ đại nhất ấn bản năm 2024.[89] Time đã xếp "Blank Space" vào danh sách bài hát cuối năm ở hàng thứ 9.[90] Bài hát đứng ở vị trí thứ 3 ở danh sách Pazz & Jop cuối năm 2014 bên The Village Voice dựa trên cuộc bỏ phiếu từ các nhà phê bình.[91] StereogumUproxx xếp bài hát ở vị trí thứ 49 và thứ 72 trong danh sách những bài hát hay nhất thập niên 2010.[92][93] Billboard đã vinh danh "Blank Space" là một trong 100 bài hát định nghĩa nên thập niên 2010. Katie Atkinson viết rằng đĩa đơn đã củng cố lối kể chuyện cuộc đời đặc trưng của Swift trong âm nhạc đồng thời "đặt ra tiêu chuẩn cho một ngôi sao nhạc pop mới và có thể tự nhận thức được" trong việc mỉa mai hình tượng do người khác nhìn nhận về nữ ca sĩ.[94] Bài hát lọt vào trong danh sách 100 đĩa đơn hay nhất thập niên 2010 ở vị trí thứ 15 theo Slant Magazine.[95]

"Blank Space" đoạt giải Bài hát của năm tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2015.[96]giải BMI năm 2016, đĩa đơn trở thành một trong những Bài hát đoạt giải thưởng giúp Swift giành được danh hiệu Nhạc sĩ sáng tác bài hát của năm.[97] "Blank Space" mang về một đề cử Tác phẩm quốc tế của năm tại giải APRA của Úc năm 2016.[98] Tại giải Grammy lần thứ 58 vào năm 2016, bài hát được đề cử ở ba hạng mục: Thu âm của năm, Bài hát của nămTrình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất.[99]

Video âm nhạc

Phát triển, nội dung và công chiếu

Sean O'Pry (hình trái) đóng vai tình nhân của Swift trong video âm nhạc "Blank Space". Video chủ yếu được ghi hình tại lâu đài OhekaLong Island, New York (hình phải).

Joseph Kahn phụ trách đạo diễn video âm nhạc cho "Blank Space" và tiết lộ rằng Swift đã lên kế hoạch "[thể hiện] ý tưởng rằng nếu như cô ấy có nhiều bạn trai chia tay cô ấy thì có lẽ vấn đề không phải ở các chàng trai mà là ở cô ấy".[100] Quá trình ghi hình cho video âm nhạc của "Blank Space" diễn ra tại hai địa điểm trên Long Island: chủ yếu quay phim ở lâu đài Oheka và một số cảnh tại lâu đài Walworth trong vòng 3 ngày vào tháng 9 năm 2014.[101] Ở ngày cuối cùng, đội ngũ của Swift hợp tác với American Express thực hiện ghi hình bộ phim cho ứng dụng di động tương tác 360° mang tên American Express Unstaged: Taylor Swift Experience.[102] Kahn nói với trang web Mashable rằng Swift đã lựa chọn kỹ lưỡng các thiết bị quay phim và khung cảnh hình ảnh: "Khi bạn có một nghệ sĩ muốn thử nghiệm khả năng chụp ảnh của cô ấy thì đó sẽ luôn là một lĩnh vực tuyệt vời đáng để tham gia."[100]

Khi quay phim, Kahn đã lấy cảm hứng phong cách khung hình cân đối đến từ bộ phim năm 1971 A Clockwork Orange của Stanley Kubrick.[102] Video bắt đầu bằng cảnh quay một nhân vật nam (Sean O'Pry) điều khiển chiếc xe AC Cobra về phía biệt thự của một nhân vật nữ do Swift đóng vai. Họ nhanh chóng trở thành một cặp tình nhân và thực hiện các hoạt động có thể thấy trong video như: khiêu vũ cùng nhau, nữ chính vẽ chân dung cho bạn trai nam chính, tản bộ vòng quanh biệt thự, cưỡi ngựa bên nhau và khắc tên cặp đôi lên cây. Đến giữa video ở cảnh dã ngoại, nhân vật của Swift để ý bạn trai mình đang nhắn tin cho ai đó và bắt đầu nổi đóa. Cặp đôi khi đó bắt đầu cãi nhau và nữ chính dần dần có hành động mất trí như la hét về phía bạn trai ở thư viện; ném bình bông; rạch tranh và bôi vẽ chân dung; dùng dao đâm vào bánh kem hình trái tim; thả điện thoại bạn trai xuống đài phun nước; vừa khóc vừa cười với nước mắt đen mascara lăn dài trên mặt; dùng kéo cắt rách áo sơ mi và đốt quần áo của bạn trai qua cửa sổ khiến cho nam chính trở nên hoảng sợ và bỏ chạy. Trước khi bạn trai kịp thời chạy đến chiếc xe của mình thì Swift đã dùng cây gậy đánh golf điên cuồng đập phá phương tiện cá nhân của anh, một cảnh quay được cho xuất phát từ ý tưởng vụ việc bắt ghen năm 2009 của Tiger Woods. Sau khi nhân vật của O'Pry vừa mới rời đi, một người đàn ông khác (Andrea Denver) đến với căn biệt thự, trở thành tình yêu mới của Swift.[100][103] Chú mèo Olivia Benson của Swift cũng góp mặt trong video âm nhạc "Blank Space".[104]

Lúc đầu Swift dự định công chiếu video lên Good Morning America vào ngày 11 tháng 11 năm 2014, nhưng Yahoo! vô tình làm rò rỉ video sớm hơn một ngày khiến cho nữ ca sĩ phải đăng tải video lên trang Vevo của cô nhanh chóng ngay sau đó.[105] Ứng dụng tương tác American Express Unstaged: Taylor Swift Experience gồm có phiên bản video 360° của "Blank Space" được phát hành miễn phí lên các cửa hàng ứng dụng di động. Người dùng có thể chọn theo Swift hoặc người yêu của cô trong cốt truyện hoặc rời cốt truyện để đi khám phá những căn phòng khác trong biệt thự và tìm ra trứng phục sinh tương tác, chẳng hạn như hình tuổi thơ của Swift.[106][107] Kahn trả lời với Rolling Stone rằng ứng dụng được tạo ra là dành riêng cho người hâm mộ siêu cuồng nhiệt đang có nguyện vọng là được gần gũi với Swift hơn.[101]

Đón nhận

Một số phương tiện đại chúng đã so sánh cốt truyện của "Blank Space" với Gone Girl và bảo rằng cả nhân vật của Swift lẫn nhân vật chính của Gone Girl đã lột bỏ vẻ lãng mạn trong tất cả chuyện tình trong quá khứ mà họ từng có.[108] Nhà báo Randall Roberts viết cho Los Angeles Times đã bảo rằng Swift đã đem lại một sản phẩm xứng tầm với giải Oscar.[103] Tạp chí Billboard đã bày tỏ khen ngợi chất lượng điện ảnh và tính thẩm mỹ của video, đồng thời nhận định vai diễn xuất phát từ bản thân ngoài đời của Swift đã gợi cảm giác thú vị và đóng vai trò làm lớp băng bao phủ lên trên chiếc bánh đầy máu.[109] Tác giả chuyên mục Jessica Valenti cho The Guardian đã biểu dương cách Swift lột tả hình tượng do người khác nhìn nhận và gọi video là "giấc mơ ban ngày về nữ quyền", trong đó "những bức tranh biếm họa hẹp hòi và phân biệt giới tính gắn liền với phụ nữ được thể hiện [từ bên trong video] nhằm giúp chúng ta cảm thấy giải trí cũng như giúp cho sự lố bịch hoàn toàn của [những bức tranh đó] có thể được thể hiện ra ngoài".[110]

Năm 2017, nhật báo USA Today và tạp chí Spin đã vinh danh "Blank Space" là video âm nhạc vĩ đại nhất mà Swift đã từng làm, trong đó Spin đã tán tụng tính thẩm mỹ quyến rũ cũng như ca ngợi cách Swift miêu tả vui nhộn về danh tiếng của chính mình.[111][104] Năm 2020, Entertainment Weekly đã chọn "Blank Space" là video hay nhất trong số các đĩa đơn album 1989 và nhận xét rằng đây là video âm nhạc duy nhất có thể diễn tả một cách nghiêm túc bằng một từ ngữ "chủ nghĩa Kubrick".[j][113] Video của bài hát đoạt giải Video Pop xuất sắc nhấtVideo xuất sắc nhất của nữ ca sĩ tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2015[114] và nhận về một đề cử Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ quốc tế tại giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản.[115] Ứng dụng American Express Unstaged: Taylor Swift Experience thắng giải Chương trình tương tác gốc tại giải Nghệ thuật sáng tạo Primetime Emmy lần thứ 67.[116] Rolling Stone xếp "Blank Space" ở vị trí thứ 67 trong danh sách 100 video âm nhạc vĩ đại nhất.[117]

Biểu diễn trực tiếp và các phiên bản khác

Swift trình diễn "Blank Space" trong chuyến lưu diễn The 1989 World Tour

Swift trình diễn "Blank Space" trong buổi nghe trước "1989 Secret Session" do Yahoo! và iHeartRadio tổ chức chiếu trực tiếp vào ngày 27 tháng 10 năm 2014.[118] Swift thể hiện ca khúc trên sóng truyền hình tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2014 và thực hiện lại vai diễn trong video âm nhạc, hóa thân thành một người đàn bà bị thần kinh và cư xử kỳ quái trước bạn trai của cô.[119] Nữ ca sĩ tiếp tục đưa "Blank Space" lên The Voice vào ngày 25 tháng 11,[120] tại chương trình thời trang Victoria's Secret năm 2014 vào ngày 2 tháng 12,[121]Jingle Bell Ball 2014 của Capital FM bên Luân Đôn, phát sóng vào ngày 5 tháng 12.[122]

Ngày 25 tháng 2 năm 2015, Swift mở màn giải Brit 2015 bằng "Blank Space". Ở đoạn đầu của buổi biểu diễn, Swift hát ca khúc phía trước các phông nền trắng in hình bóng của các vũ công nam phụ họa.[123] Bài hát xuất hiện trong danh sách tiết mục của ba chuyến lưu diễn của Swift: The 1989 World Tour (2015),[124] Reputation Stadium Tour (2018)[125]The Eras Tour (2023–2024).[126] Vào ngày 9 tháng 9 năm 2019, Swift biểu diễn bài hát tại buổi hòa nhạc một chặng duy nhất City of Lover ở Paris, Pháp.[127] Cô biểu diễn lại bài hát tại buổi hòa nhạc từ thiện We Can Survive vào ngày 19 tháng 10 năm 2019, ở Los Angeles.[128] Tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2019, Swift được vinh danh Nghệ sĩ của thập niên và trình diễn "Blank Space" liên khúc với các bản hit khác của cô.[129] Cô tiếp tục biểu diễn ca khúc tại Jingle Bell Ball 2019 của Capital FM bên Luân Đôn[130] và tại Jingle Ball 2019 của iHeartRadio Z100 bên thành phố New York.[131]

Sau giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2014, rapper Pitbull đăng tải bản remix của "Blank Space" có phân đoạn đầu tiên là do anh rap lên nền tảng SoundCloud vào ngày 15 tháng 12 năm 2014.[132] Nhóm nhạc phục cổ Postmodern Jukebox đã phối lại bài hát thành phiên bản phong cách thập niên 1940[133] và ban nhạc rock Imagine Dragons trình diễn "Blank Space" với phần nhạc chậm rãi lấy mẫu từ "Stand by Me" của Ben E. King tại chương trình hòa nhạc BBC Radio 1 Live Lounge vào tháng 2 năm 2015.[134] I Prevail phát hành bản hát lại post-hardcore của "Blank Space" làm đĩa đơn ra mắt của họ vào ngày 5 tháng 12 năm 2014.[135] Bản hát lại vươn lên vị trí thứ 9 trên bảng xếp hạng Hot Rock Songs của Billboard[136] và thứ 90 trên Billboard Hot 100,[137] và được RIAA chứng nhận Bạch kim tương đương khoảng một triệu đơn vị tiêu thụ.[138]

Ca sĩ rock Ryan Adams phát hành bản hát lại "Blank Space" trong album hát lại từng bài 1989 năm 2015 của anh,[139] trong đó Adams kết hợp các nhạc cụ dây acoustic đơn giản lẫn đối nghịch với cách sản xuất điện tử của bản gốc.[140][141] Ca sĩ indie Father John Misty hát lại "Blank Space" theo phong cách ban nhạc rock The Velvet Underground vào năm 2015.[142] Bản cover đã tái hiện phiên bản của Adams và được biên soạn dựa trên giai điệu của bài hát "I'm Waiting for the Man".[143]

Đội ngũ sản xuất

Thông tin phần ghi công được lấy từ phần ghi chú của 1989.[23]

Bảng xếp hạng

Chứng nhận

Chứng nhận của "Blank Space"
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[72] 14× Bạch kim 980.000double-dagger
Áo (IFPI Áo)[224] 2× Bạch kim 60.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[225] 4× Kim cương 1.000.000double-dagger
Canada (Music Canada)[73] 4× Bạch kim 320.000*
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[226] Bạch kim 90.000double-dagger
Đức (BVMI)[227] Bạch kim 300.000double-dagger
Ý (FIMI)[228] Bạch kim 50.000double-dagger
Nhật Bản (RIAJ)[229] Vàng 100.000*
México (AMPROFON)[230] Vàng 30.000*
New Zealand (RMNZ)[74] 4× Bạch kim 120.000double-dagger
Na Uy (IFPI)[231] Bạch kim 60.000double-dagger
Ba Lan (ZPAV)[232] 4× Bạch kim 200.000double-dagger
Bồ Đào Nha (AFP)[233] 2× Bạch kim 40.000double-dagger
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[234] Bạch kim 60.000double-dagger
Thụy Sĩ (IFPI)[235] Vàng 15.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[75] 3× Bạch kim 1.800.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[54] 8× Bạch kim 8.000.000double-dagger
Phát trực tuyến
Hy Lạp (IFPI Hy Lạp)[182] Bạch kim 2.000.000dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.
dagger Chứng nhận dựa theo doanh số phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

Ngày phát hành và định dạng của "Blank Space"
Khu vực Ngày phát hành Định dạng Hãng đĩa Chú thích
Hoa Kỳ 10 tháng 11 năm 2014 Đài phát thanh rhythmic [45]
11 tháng 11 năm 2014 Đài phát thanh hit đương đại [47]
Đài phát thanh hot adult contemporary Republic [46]
Ý 12 tháng 12 năm 2014 Đài phát thanh Universal [48]
Đức 2 tháng 1 năm 2015 Đĩa đơn CD [49]

"Blank Space (Taylor's Version)"

"Blank Space (Taylor's Version)"
Bài hát của Taylor Swift
từ album 1989 (Taylor's Version)
Phát hành27 tháng 10 năm 2023 (2023-10-27)
Phòng thuPrime Recording (Nashville)
Thời lượng3:51
Hãng đĩaRepublic
Sáng tác
Sản xuất
Video lời bài hát
"Blank Space (Taylor's Version)" trên YouTube

Năm 2018, Swift rời khỏi Big Machine và ký bản hợp đồng mới với Republic Records.[236] Tuy nhiên, nữ ca–nhạc sĩ đã vướng phải một cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm vào giữa năm 2019 với người quản lý tài năng Scooter Braun, nguyên nhân bắt nguồn từ việc Braun đã mua lại Big Machine Records kèm theo các bản thu hoàn chỉnh những album trước đó của nữ ca sĩ dưới sự phát hành từ phía hãng đĩa cũ.[237] Sau khi cân nhắc lựa chọn thì cuối cùng, Swift quyết định tái thu âm sáu album phòng thu đầu tiên vào tháng 11 năm 2020.[238][239] Bằng việc tái thu âm, Swift sẽ có toàn bộ quyền sở hữu bản thu mới, cho phép cô tự cấp phép chính mình sử dụng những bản nhạc tái thu âm với mục đích thương mại và hy vọng thay thế được các phiên bản thuộc quyền sở hữu của Big Machine.[240] Swift phân loại các bản tái thu âm bằng hậu tố "Taylor's Version".[241]

Phiên bản tái thu âm của "Blank Space" với hậu tố "Taylor's Version" được phát hành trong album tái thu âm của 1989 với nhan đề 1989 (Taylor's Version) vào ngày 27 tháng 10 năm 2023.[242] Swift sản xuất "Blank Space (Taylor's Version)" cùng với Christopher Rowe, đồng thời Rowe cũng là người đã giúp cô sản xuất các bản tái thu âm trước đó.[243] Bài hát do Derek Garten phụ trách khâu kỹ thuật tại Prime Recording Studio ở Nashville, Tennessee; Ghenea trộn nhạc ở MixStar Studios bên Virginia Beach, Virginia; Randy Merrill thực hiện công đoạn master bên Sterling SoundEdgewater, New Jersey. Rowe và Sam Holland thu âm giọng ca của Swift tại Conway Recording Studios bên Los Angeles và Kitty Committee Studio bên New York.[244]

Đón nhận

Các nhà phê bình âm nhạc có nhiều ý kiến về quá trình tái thu âm. Nhà báo Kelsey Barnes bên tạp chí The Line of Best Fit nhận xét rằng "Blank Space (Taylor's Version)" nghe giống như "sao chép y chang từ bản gốc",[245] còn biên tập viên Adam White của The Independent viết rằng bài hát tái thu âm có giọng hát trưởng thành của Swift đã làm xói mòn "vẻ hưng cảm thô thiển" của bản gốc.[246] Trong bài nhận định từ NME, Hollie Geraghty tán tụng bản "Taylor's Version" vì đã giới thiệu một trong những "chiếc thắt lưng được đánh bóng đẹp mắt mà gần một thập kỷ sau vẫn còn mới nguyên".[247] "Blank Space (Taylor's Version)" vươn lên hạng 9 trên bảng xếp hạng Billboard Global 200.[248] Ở một số quốc gia, "Blank Space (Taylor's Version)" đạt top 20 ở Úc (9),[249] Canada (11),[58] New Zealand (12)[250] và Hoa Kỳ (12).[251]

Đội ngũ sản xuất

Thông tin phần ghi công được lấy từ phần ghi chú của 1989 (Taylor's Version).[244]

  • Taylor Swift – hát chính, hát đệm, sáng tác, sản xuất
  • Matt Billingslea – lập trình trống, membranophone, guitar điện, đàn tổng hợp âm
  • Bryce Bordone – kỹ thuật trộn nhạc
  • Dan Burns – lập trình synth bass, lập trình synth, kỹ thuật bổ sung
  • Derek Garten – lập trình bổ sung, kỹ thuật, chỉnh sửa
  • Serban Ghenea – trộn nhạc
  • Sam Holland – thu âm giọng hát
  • Max Martin – sáng tác
  • Mike Meadows – guitar acoustic, guitar điện, đàn tổng hợp âm
  • Randy Merrill – kỹ thuật master
  • Christopher Rowe – sản xuất, hát đệm, thu âm giọng hát
  • Shellback – sáng tác

Bảng xếp hạng

Bảng xếp hạng của "Blank Space (Taylor's Version)"
Bảng xếp hạng (2023) Vị trí
cao nhất
Úc (ARIA)[249] 9
Brasil (Brasil Hot 100)[252] 63
Canada (Canadian Hot 100)[58] 11
Pháp (SNEP)[253] 165
Global 200 (Billboard)[181] 9
Hy Lạp International (IFPI)[254] 16
Ireland (Billboard)[255] 12
Malaysia (Billboard)[256] 25
Malaysia International (RIM)[257] 4
MENA (IFPI)[258] 16
New Zealand (Recorded Music NZ)[250] 12
Philippines (Billboard)[259] 7
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[260] 100
Thụy Điển (Sverigetopplistan)[261] 66
UAE (IFPI)[262] 7
Anh Quốc (Billboard)[263] 15
Anh Quốc Download (Official Charts Company)[264] 35
Anh Quốc Singles Sales (OCC)[265] 40
Anh Quốc Streaming (OCC)[266] 17
Hoa Kỳ Billboard Hot 100[173] 12
Việt Nam (Vietnam Hot 100)[267] 49

Chứng nhận

Chứng nhận của "Blank Space (Taylor's Version)"
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[72] Vàng 35.000double-dagger
Brasil (Pro-Música Brasil)[268] Vàng 20.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[269] Bạc 200.000double-dagger

double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Vocal layering (xếp lớp giọng hát) là một quá trình xếp chồng giọng hát trong bản phối để tạo ra một phân đoạn giọng hát mạnh mẽ và đầy đặn. Quá trình này cần sử dụng nhiều bản ghi âm giọng hát khác nhau. Những bản ghi âm này sẽ được trộn vào bản phối để tạo độ sâu, chiều sâu và cá tính cảm xúc của giọng hát.[16]
  2. ^ Tạm dịch: "Phép màu, điên cuồng, thiên đàng, địa ngục."
  3. ^ Tạm dịch: "Cơn ác mộng đậy che bằng giấc mơ giữa ban ngày."
  4. ^ Tạm dịch: "Em có một danh sách dài những người yêu cũ / Họ đều bảo anh rằng em bị điên / Nhưng mà em vẫn còn chừa một chỗ trống dành cho anh yêu này."
  5. ^ Tạm dịch: "Và em sẽ viết tên anh vào [chỗ trống] đó."
  6. ^ Tạm dịch: "Em có một danh sách dài những người yêu cũ."
  7. ^ Tạm dịch: "Tất cả những người yêu Starbucks bị ế."
  8. ^ Tạm dịch: "Ngày xưa có một cô gái được mọi [chàng trai] biết đến nhưng không ai [ở bên cạnh] cả."
  9. ^ Dịch thoát ý của "intriguingly skeletal undercarriage" là "cấu trúc sáng tác đầy ấn tượng".
  10. ^ Kubrickian (Chủ nghĩa Kubrick) có nghĩa là một bộ phim mang đặc điểm của chủ nghĩa hoàn hảo tỉ mỉ, do đội ngũ nắm vững các khía cạnh kỹ thuật làm phim cổ điển như phong cách hình ảnh đầy tâm trạng trong các bộ phim thuộc nhiều thể loại. Từ này có nguồn gốc từ tác phong chuyên nghiệp và tính cách cầu toàn hoàn hảo của đạo diễn kiêm nhà làm phim Stanley Kubrick.[112]

Tham khảo

  1. ^ a b McNutt 2020, tr. 77.
  2. ^ Caulfield, Keith (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's Red Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002” [Album Red của Taylor Swift bán được 1,21 triệu bản; Tuần bán album lớn nhất kể từ năm 2002]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  3. ^ McNutt 2020, tr. 77–78.
  4. ^ Doyle, Patrick (ngày 15 tháng 7 năm 2013). “Taylor Swift: 'Floodgates Open' for Next Album” [Taylor Swift: 'mở cửa lũ' cho album tiếp theo]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  5. ^ Perone 2017, tr. 2.
  6. ^ Vinson, Christina (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift on Turning Away from Country Music on '1989' [Taylor Swift từ bỏ nhạc đồng quê trong '1989']. Taste of Country (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  7. ^ McNutt 2020, tr. 78.
  8. ^ Jo Sales, Nancy; Diehl, Jessica (ngày 15 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift's Telltale Heart” [Trái tim kể chuyện của Taylor Swift]. Vanity Fair (bằng tiếng Anh) (tháng 4 năm 2013). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  9. ^ a b Hindo, Madison; High, Largo (ngày 12 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift Has Reinvented Her Public Image with 1989 [Taylor Swift đã đổi mới hình tượng công chúng của cô ấy trong album 1989]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  10. ^ Chang, Bee-Shyuan (ngày 15 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift Gets Some Mud on Her Boots” [Taylor Swift có một số vết nhơ trong sự nghiệp của cô ấy]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  11. ^ Eells, Josh (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Cover Story: The Reinvention of Taylor Swift” [Câu chuyện trang bìa: Sự đổi mới của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  12. ^ Yuan, Jada (ngày 13 tháng 2 năm 2015). “On the Road with Best Friends Taylor Swift and Karlie Kloss” [Trên đường cùng đôi bạn thân Taylor Swift và Karlie Kloss]. Vogue (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  13. ^ Block, Melissa (ngày 31 tháng 10 năm 2014). 'Anything That Connects': A Conversation With Taylor Swift” ['Bất cứ điều gì kết nối': Cuộc trò chuyện với Taylor Swift] (Đoạn âm thanh và phụ đề). NPR (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  14. ^ Light, Alan (ngày 5 tháng 12 năm 2014). Billboard Woman of the Year Taylor Swift on Writing Her Own Rules, Not Becoming a Cliche and the Hurdle of Going Pop” [Phụ nữ của năm theo Billboard Taylor Swift nói về việc sáng tác quy tắc riêng của cô ấy, không trở thành một người rập khuôn và trở ngại trong việc chuyển sang dòng nhạc pop]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  15. ^ Talbott, Chris (ngày 13 tháng 10 năm 2013). “Taylor Swift Talks Next Album, CMAs and Ed Sheeran” [Taylor Swift nói về album tiếp theo, CMA và Ed Sheeran] (bằng tiếng Anh). Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  16. ^ Kody, Arthur (ngày 12 tháng 10 năm 2023). “Mastering the art of vocal layering: A step-by-step guide” [Làm chủ nghệ thuật xếp lớp giọng hát: Hướng dẫn từng bước một] (bằng tiếng Anh). Native Instruments. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2024.
  17. ^ Eells, Josh (ngày 16 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Five Things to Expect on 1989 [Taylor Swift tiết lộ 5 điều đáng mong đợi ở 1989]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  18. ^ Sisario, Ben (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Sales of Taylor Swift's 1989 Intensify Streaming Debate” [Doanh số bán album 1989 của Taylor Swift làm tăng thêm cuộc tranh luận về phát nhạc trực tuyến]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  19. ^ Lipshutz, Jason (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Is Going Pop. And That's a Good Thing” [Taylor Swift đang theo đuổi nhạc pop. Và đó là một điều tốt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  20. ^ Pettifer, Amy (ngày 27 tháng 11 năm 2014). “Reviews: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. The Quietus (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  21. ^ Perone 2017, tr. 55–56.
  22. ^ a b Zollo, Paul (ngày 13 tháng 2 năm 2016). “The Oral History of Taylor Swift's 1989 [Lịch sử truyền miệng album 1989 của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024 – qua Cuepoint.
  23. ^ a b Taylor Swift (ngày 27 tháng 10 năm 2014). Digital Booklet – 1989 [Tập sách nhỏ kỹ thuật số – 1989]. 1989 (Deluxe Edition) (bằng tiếng Anh). Big Machine Records. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024 – qua iTunes Store. Ghi chú: Phần lời bài hát và ghi công của "Blank Space" nằm ở trang 3.
  24. ^ a b Sloan 2021, tr. 23.
  25. ^ a b c Gore, Sydney (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 [Taylor Swift – 1989]. The 405 (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  26. ^ Sloan 2021, tr. 23; Sloan, Harding & Gottlieb 2019, tr. 34.
  27. ^ Dahi, Melissa (ngày 24 tháng 11 năm 2014). “Why You Keep Mishearing That Taylor Swift Lyric” [Tại sao mà bạn cứ nghe nhầm lời bài hát của Taylor Swift]. The Cut (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  28. ^ Rosen, Christopher (ngày 25 tháng 5 năm 2015). “Even Taylor Swift's Mom Thought It Was 'Starbucks Lovers' [Kể cả mẹ của Taylor Swift còn tưởng đó là 'những người yêu Starbucks']. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  29. ^ Ahlgrim, Callie (ngày 2 tháng 11 năm 2023). “13 fun facts about Taylor Swift's '1989' that you may not know” [13 sự thật thú vị về '1989' của Taylor Swift có thể bạn chưa biết]. Business Insider (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  30. ^ a b Klosterman, Chuck (ngày 15 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift on 'Bad Blood,' Kanye West, and How People Interpret Her Lyrics” [Taylor Swift bàn về 'Bad Blood,' Kanye West, và cách mọi người nhìn nhận lời ca của cô ấy]. GQ (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  31. ^ “Taylor Swift Explained to Us the Story and Misconceptions of 'Blank Space' [Taylor Swift giải thích cho chúng ta biết câu chuyện và sự nhầm tưởng về 'Blank Space']. NME (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  32. ^ Sloan 2021, tr. 24.
  33. ^ Levy, Piet (ngày 12 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's 'Blank Space' among the 10 best songs of 2014” ['Blank Space' của Taylor Swift lọt top 10 ca khúc hay nhất 2014]. Milwaukee Journal Sentinel (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  34. ^ a b c d e Baesley, Corey (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 [Taylor Swift: 1989]. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  35. ^ Jagoda, Vrinda (ngày 19 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift: 1989 Album Review” [Taylor Swift: Đánh giá album 1989]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  36. ^ Lansky, Sam (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Review: 1989 Marks a Paradigm Swift” [Đánh giá: 1989 đánh dấu một hình mẫu Swift]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  37. ^ He, Kristen (ngày 9 tháng 11 năm 2017). “Why Taylor Swift's 1989 Is Her Best Album: Critic's Take” [Tại sao 1989 của Taylor Swift là album hay nhất của cô ấy: Nhận xét của nhà phê bình]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  38. ^ a b Gill, Andy (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, 1989 – Album Review: Pop Star Shows 'Promising Signs of Maturity' [Taylor Swift, 1989 – Đánh giá album: Ngôi sao nhạc Pop cho thấy 'Dấu hiệu trưởng thành đầy hứa hẹn']. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  39. ^ a b Wood, Mikael (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Review: Taylor Swift Smooths Out the Wrinkles on Sleek 1989 [Đánh giá: Taylor Swift tươm tất khoe kiểu dáng đẹp 1989]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  40. ^ a b Petridis, Alexis (ngày 26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift's Singles – Ranked!” [Đĩa đơn của Taylor Swift – Được xếp hạng!]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  41. ^ a b Unterberger, Andrew (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Gets Clean, Hits Reset on New Album 1989' [Taylor Swift trở nên sạch sẽ, đạt thành tích thiết lập lại trong album 1989 mới]. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  42. ^ Aswad, Jem (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “The Elaborate High-Security Tactics Behind Taylor Swift's Album Release” [Chiến thuật bảo mật phức tạp đằng sau việc phát hành album của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  43. ^ Mandell, Andrea (ngày 25 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's new album, '1989,' leaked” [Album mới của Taylor Swift, '1989', bị rò rỉ]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  44. ^ Weber, Lindsey (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Blame Canada for Leaking Taylor Swift's New Album” [Đổ lỗi cho Canada vì rò rỉ album mới của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2024.
  45. ^ a b Lipshutz, Jason (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's Next 1989 Single Announced” [Đĩa đơn tiếp theo cho 1989 của Taylor Swift được công bố]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  46. ^ a b “Hot AC | Genres | Republic Playbook” [Phát thanh Hot AC | Thể loại | Republic Playbook] (bằng tiếng Anh). Republic Records. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  47. ^ a b “Top 40/M Future Releases” [Phát hành Top 40/M tương lai] (bằng tiếng Anh). All Access Music Group. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  48. ^ a b Mompellio, Gabriel. “Taylor Swift 'Blank Space' [Taylor Swift 'Blank Space'] (bằng tiếng Ý). radiodate.it. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  49. ^ a b “Blank Space (2-Track) – Single – Germany” [Blank Space (2-Track) – Đĩa đơn – Đức] (bằng tiếng Đức). Amazon. ngày 2 tháng 1 năm 2015. ASIN B00QSRRCGE. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  50. ^ Trust, Gary (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Returns to No. 1 on Hot 100” ['Shake It Off' của Taylor Swift trở lại vị trí số 1 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  51. ^ Trust, Gary (ngày 19 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Makes Hot 100 History With 'Blank Space' [Taylor Swift làm nên lịch sử Hot 100 với 'Blank Space']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  52. ^ Trust, Gary (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Helps Tie Record Streak for Women Atop Hot 100” [Taylor Swift giúp phái nữ lập kỷ lục trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  53. ^ Trust, Gary (ngày 14 tháng 7 năm 2019). “Ask Billboard: Taylor Swift's Career Sales & Streaming Totals, From 'Tim McGraw' to 'You Need to Calm Down' [Hỏi Billboard: Tổng doanh số phát trực tuyến và tiêu thụ trong sự nghiệp của Taylor Swift, từ 'Tim McGraw' đến 'You Need to Calm Down']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  54. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  55. ^ Zellner, Xander (ngày 14 tháng 8 năm 2023). “Taylor Swift's 'Blank Space' Returns to Hot 100 for First Time in Eight Years” ['Blank Space' của Taylor Swift lần đầu tiên trở lại Hot 100 sau tám năm]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  56. ^ Zellner, Xander (ngày 22 tháng 8 năm 2023). “Taylor Swift Extends Artist 100 Longevity Record to 77 Weeks at No. 1” [Taylor Swift kéo dài kỷ lục trụ hạng Artist 100 lâu nhất ở vị trí số 1 lên 77 tuần]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  57. ^ a b "Australian-charts.com – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  58. ^ a b c d "Taylor Swift Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  59. ^ a b “EMA Top 10 Airplay: Week Ending January 20, 2015” [EMA Top 10 Airplay: Tuần kết thúc vào ngày 20 tháng 1 năm 2015] (bằng tiếng Anh). Entertainment Monitoring Africa. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  60. ^ a b "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  61. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Euro Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  62. ^ a b "Taylor Swift: Blank Space" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  63. ^ a b "Charts.nz – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  64. ^ a b "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Airplay Top 100. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  65. ^ a b "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 12. týden 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  66. ^ a b “Airplay Top5 – 09.02.2015 – 15.02.2015" [Top5 phát thanh – 09.02.2015 – 15.02.2015"] (bằng tiếng Bulgaria). Bulgarian Association of Music Producers. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  67. ^ a b "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 07. týden 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  68. ^ a b "The Irish Charts – Search Results – Taylor Swift" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  69. ^ a b "Taylor Swift – Blank Space Media Forest" (bằng tiếng Israel). Israeli Airplay Chart. Media Forest. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024 – qua Wayback Machine.
  70. ^ a b "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  71. ^ a b “The official lebanese Top 20 – Taylor Swift” [Top 20 chính thức của Lebanon – Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). The Official Lebanese Top 20. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  72. ^ a b c “ARIA Charts – Accreditations – 2024 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2024.
  73. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  74. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  75. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  76. ^ “Global Music Report 2016” [Báo cáo âm nhạc quốc tế năm 2016] (PDF) (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. ngày 12 tháng 4 năm 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  77. ^ Kimberlin, Shane (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 | Album Review” [Taylor Swift – 1989 | Đánh giá album]. musicOMH (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  78. ^ Cliff, Aimee (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “1989” [1989]. Fact (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  79. ^ Leedham, Robert (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Album Review: Taylor Swift – 1989 [Đánh giá album: Taylor Swift – 1989]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  80. ^ Empire, Kitty (ngày 26 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 review – a bold, gossipy confection” [Taylor Swift: đánh giá 1989 – một sự pha trộn đầy táo bạo và đầy phiếm luận]. The Observer (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  81. ^ Caramanica, Jon (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Review: Taylor Swift's 1989 [Đánh giá: Taylor Swift's 1989]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  82. ^ Sheffield, Rob (ngày 28 tháng 10 năm 2023). “All 243 of Taylor Swift's Songs, Ranked” [Toàn bộ 243 bài hát của Taylor Swift: Được xếp hạng]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  83. ^ Song, Jane; và đồng nghiệp (ngày 11 tháng 2 năm 2020). “All 158 Taylor Swift Songs, Ranked” [Toàn bộ 158 bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng]. Paste (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  84. ^ Rankin, Selje (ngày 31 tháng 7 năm 2020). “The best song from every Taylor Swift album” [Bài hát hay nhất đến từ mỗi album của Taylor Swift]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  85. ^ Lee, Taila (ngày 26 tháng 1 năm 2023). “The Taylor Swift Essentials: 13 Songs That Display Her Storytelling Prowess And Genre-Bouncing Genius” [Tiêu biểu của Taylor Swift: 13 bài hát đại diện cho khả năng kể chuyện và thiên tài nhảy thể loại của cô ấy] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  86. ^ “50 Best Songs Of 2014” [50 bài hát hay nhất năm 2014]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  87. ^ “The 100 Best Songs of the 2010s” [100 bài hát hay nhất thập niên 2010]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  88. ^ “The 500 Greatest Songs of All Time (2021)” [500 bài hát vĩ đại nhất (ấn bản năm 2021)]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 15 tháng 9 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  89. ^ “The 500 Greatest Songs of All Time (2024)” [500 bài hát vĩ đại nhất (ấn bản năm 2024)]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 2 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  90. ^ “Best Songs 2014: 'Flawless' and 'Blank Space' [Bài hát xuất sắc năm 2014: 'Flawless' và 'Blank Space']. Time (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  91. ^ Young, Alex (ngày 13 tháng 1 năm 2015). “According to 600 music critics, these were the best albums and songs of 2014” [Theo 600 nhà phê bình âm nhạc, đây là những album và bài hát xuất sắc nhất năm 2014]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  92. ^ “The 200 Best Songs of the 2010s” [200 bài hát xuất sắc nhất thập niên 2010]. Stereogum (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  93. ^ “All The Best Songs of the 2010s, Ranked” [Toàn bộ bài hát xuất sắc nhất thập niên 2010, được xếp hạng]. Uproxx (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  94. ^ Atkinson, Katie (ngày 21 tháng 11 năm 2019). “Songs That Defined the Decade: Taylor Swift's 'Blank Space' [Bài hát định nghĩa thập niên: 'Blank Space' của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  95. ^ “The 100 Best Singles of the 2010s” [100 đĩa đơn xuất sắc nhất thập niên 2010]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). ngày 1 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  96. ^ “American Music Awards 2015: Full Winners List” [Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2015: Toàn bộ người chiến thắng đầy đủ]. Variety (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  97. ^ “BMI Honors Taylor Swift and Legendary Songwriting Duo Mann & Weil at the 64th Annual BMI Pop Awards” [BMI vinh danh Taylor Swift và bộ đôi sáng tác huyền thoại Mann & Weil tại Lễ trao giải BMI Pop thường niên lần thứ 64] (bằng tiếng Anh). Broadcast Music, Inc. ngày 11 tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  98. ^ “APRA Music Awards 2016” [Giải thưởng Âm nhạc APRA năm 2016] (bằng tiếng Anh). APRA AMCOS. ngày 5 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  99. ^ “Grammy awards winners: the full list” [Những người đoạt giải Grammy: Danh sách đầy đủ]. The Guardian (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  100. ^ a b c Anthony Hernandez, Brian (ngày 10 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Cries, Screams, Stabs In Crazy 'Blank Space' Music Video” [Taylor Swift khóc, la hét, đâm dao trong MV 'Blank Space' đầy điên cuồng] (bằng tiếng Anh). Mashable. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  101. ^ a b Spanos, Brittany (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's 'Blank Space' Director Details Interactive App” [Đạo diễn 'Blank Space' của Taylor Swift trình bày chi tiết về ứng dụng tương tác]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  102. ^ a b Sullivan, Kevin P. (ngày 14 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Really Stood on a Horse And 7 Other Secrets From 'Blank Space' [Taylor Swift thực sự đã đứng trên lưng ngựa và 7 bí mật khác từ 'Blank Space'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  103. ^ a b Roberts, Randall (ngày 10 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Loses Mind, Smashes, Slashes in New 'Blank Space' Clip” [Taylor Swift mất trí, đập, chém trong clip 'Blank Space' mới]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  104. ^ a b “30 Taylor Swift Music Videos, Ranked” [30 video âm nhạc của Taylor Swift, được xếp hạng]. Spin (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  105. ^ McIntyre, Hugh (ngày 10 tháng 11 năm 2014). “Yahoo Accidentally Leaks Taylor Swift's New Music Video For 'Blank Space' [Yahoo vô tình làm rò rỉ video âm nhạc mới của Taylor Swift cho bài hát 'Blank Space']. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  106. ^ “Taylor and American Express Brings Fans a First-of-Its-Kind Video Experience for 'Blank Space' Music Video” [Taylor và American Express mang đến cho người hâm mộ trải nghiệm kiểu mới trong video ca nhạc 'Blank Space'] (bằng tiếng Anh). Taylorswift.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  107. ^ Lipshutz, Jason (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's Blank Space App: Inside The User Experience” [Ứng dụng Blank Space của Taylor Swift: Trải nghiệm người dùng bên trong]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  108. ^ Zuckerman, Esther (ngày 10 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Is In On the Joke in Her 'Blank Space' Video” [Taylor Swift đang đùa giỡn trong video 'Blank Space' của cô ấy]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  109. ^ Lipshutz, Jason; Strecker, Erin (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift's Top 10 Best Music Videos” [Top 10 MV hay nhất của Taylor Swift]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  110. ^ Valenti, Jessica (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift in the 'Blank Space' Video Is the Woman We've Been Waiting For” [Taylor Swift trong video 'Blank Space' là người phụ nữ mà chúng ta đang chờ đợi]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  111. ^ Hutcheson, Susannah (ngày 31 tháng 8 năm 2017). “The Top 10 Taylor Swift Music Videos, Ranked” [Top 10 video ca nhạc của Taylor Swift, được xếp hạng]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  112. ^ Reilly, Nick (ngày 5 tháng 10 năm 2018). 'Lynchian', 'Tarantinoesque' and 'Kubrickian' lead new film words added to Oxford English Dictionary” [‘Lynchian’, ‘Tarantinoesque’ và ‘Kubrickian’ là những từ vựng về điện ảnh mới được đưa vào Từ điển tiếng Anh Oxford]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  113. ^ Rankin, Seija; Huff, Lauren (ngày 30 tháng 6 năm 2020). “The Best Taylor Swift Music Video From Every Album” [Video âm nhạc Taylor Swift hay nhất từ mọi album]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  114. ^ Lipshutz, Jason (ngày 30 tháng 8 năm 2015). “MTV Video Music Awards 2015: The Winners” [Giải thưởng Video âm nhạc của MTV năm 2015: Người chiến thắng]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  115. ^ “MTV Video Music Awards Japan 2015” [Giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản năm 2015] (bằng tiếng Anh). MTV Nhật Bản. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  116. ^ Li, Shirley (ngày 10 tháng 9 năm 2015). “Emmys 2015: Taylor Swift wins first Emmy, more early honors announced” [Emmys 2015: Taylor Swift giành giải Emmy đầu tiên, nhiều danh hiệu sớm được công bố]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  117. ^ Browne, David; và đồng nghiệp (ngày 30 tháng 7 năm 2021). “The 100 Greatest Music Videos” [100 video âm nhạc vĩ đại nhất]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  118. ^ Stutz, Colin (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Live-Broadcasts Manhattan Rooftop Secret Session” [Taylor Swift phát sóng trực tiếp Secret Session trên sân thượng Manhattan]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  119. ^ “Watch Taylor Swift's Theatrical 'Blank Space' Live Debut at AMAs” [Xem buổi ra mắt trực tiếp sân khấu 'Blank Space' của Taylor Swift tại AMAs]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  120. ^ Benjamin, Jeff (ngày 26 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Brings Dramatic Flair to "Blank Space" Live on 'The Voice' [Taylor Swift mang đến sự tinh tế kịch tính cho "Blank Space" trực tiếp trên 'The Voice'] (bằng tiếng Anh). Fuse. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  121. ^ Harvey, Lydia (ngày 3 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift prances around in lingerie during Victoria's Secret Fashion Show” [Taylor Swift nhảy múa trong trang phục nội y trong Victoria's Secret Fashion Show]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  122. ^ Stutz, Colin (ngày 6 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Beats Laryngitis, Sam Smith, Ariana Grande Shine at KIIS FM Jingle Ball” [Taylor Swift đánh bại Laryngitis, Sam Smith, Ariana Grande để tỏa sáng tại KIIS FM Jingle Ball]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  123. ^ Lee, Ashley (ngày 25 tháng 2 năm 2015). “Brit Awards 2015: Taylor Swift Performs 'Blank Space' [Brit Awards 2015: Taylor Swift trình diễn ca khúc 'Blank Space']. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  124. ^ Yahr, Emily (ngày 5 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift '1989' World Tour: Set list, costumes, the stage, the spectacle” [Taylor Swift '1989' World Tour: Danh sách bài hát, trang phục, sân khấu, cảnh tượng]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  125. ^ Sheffield, Rob (ngày 9 tháng 5 năm 2018). “Why Taylor Swift's 'Reputation' Tour Is Her Finest Yet” [Tại sao chuyến lưu diễn 'Reputation' của Taylor Swift lại là chuyến lưu diễn tuyệt vời nhất của cô ấy]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  126. ^ Shafer, Ellise (ngày 18 tháng 3 năm 2023). “Taylor Swift Eras Tour: The Full Setlist From Opening Night” [Taylor Swift Eras Tour: Danh sách bài hát đầy đủ từ đêm mở màn]. Variety (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  127. ^ Mylrea, Hannah (ngày 10 tháng 9 năm 2019). “Taylor Swift's The City of Lover concert: a triumphant yet intimate celebration of her fans and career” [Buổi hòa nhạc The City of Lover của Taylor Swift: một lễ kỷ niệm vừa thành công vừa thân mật dành cho người hâm mộ và sự nghiệp của cô]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  128. ^ Aniftos, Rania (ngày 20 tháng 10 năm 2019). “Taylor Swift, Billie Eilish & More Supported a Great Cause at 7th Annual We Can Survive Concert: Recap” [Taylor Swift, Billie Eilish và nhiều người khác đã ủng hộ một mục đích vĩ đại tại buổi hòa nhạc We Can Survive thường niên lần thứ 7: Tóm tắt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  129. ^ Gracie, Bianca (ngày 24 tháng 11 năm 2019). “Taylor Swift Performs Major Medley Of Hits, Brings Out Surprise Guests For 'Shake It Off' at 2019 AMAs” [Taylor Swift biểu diễn liên khúc hit lớn, mang đến khách mời bất ngờ cho 'Shake It Off' tại AMAs 2019]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  130. ^ Iasimone, Ashley (ngày 8 tháng 12 năm 2019). “Taylor Swift Performs 'Christmas Tree Farm' Live for the First Time at Capital FM's Jingle Bell Ball: Watch” [Taylor Swift biểu diễn trực tiếp 'Christmas Tree Farm' lần đầu tiên tại Jingle Bell Ball của Capital FM: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  131. ^ Mastrogiannis, Nicole (ngày 14 tháng 12 năm 2019). “Taylor Swift Brings Holiday Cheer to Jingle Ball with "Christmas Tree Farm" [Taylor Swift mang đến niềm vui ngày lễ cho Jingle Ball với "Christmas Tree Farm"] (bằng tiếng Anh). iHeartRadio. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  132. ^ Menyes, Carolyn (ngày 15 tháng 12 năm 2014). “Pitbull Reworks Taylor Swift 'Blank Space': Listen to the AMAs Inspired Mr. Worldwide Remix” [Pitbull làm lại Taylor Swift 'Blank Space': Nghe phiên bản Mr. Worldwide Remix cảm hứng sau AMAs]. Music Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  133. ^ “Taylor Swift's Song 'Blank Space' Goes Viral With 1940's Style YouTube Cover” [Bài hát 'Blank Space' của Taylor Swift trở nên lan truyền với phiên bản hát lại trên YouTube theo phong cách những năm 1940] (bằng tiếng Anh). Capital FM. ngày 17 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  134. ^ Trudon, Taydor (ngày 13 tháng 2 năm 2015). “Imagine Dragons Jam Out To Taylor Swift's 'Blank Space' In Soulful Cover” [Ban nhạc Imagine Dragons trình diễn ca khúc 'Blank Space' của Taylor Swift trong bản cover đầy cảm xúc]. HuffPost (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  135. ^ “Blank Space – Single by I Prevail” [Blank Space – Đĩa đơn của I Prevail] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. ngày 5 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  136. ^ White, Emily (ngày 16 tháng 6 năm 2015). “I Prevail's Punk Cover of Taylor Swift's 'Blank Space' Debuts on Hot Rock Songs” [Bản cover nhạc punk của I Prevail trong ca khúc 'Blank Space' của Taylor Swift ra mắt trên bảng xếp hạng Hot Rock Songs]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  137. ^ “I Prevail Chart History” [Lịch sử bảng xếp hạng của I Prevail]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  138. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – I Prevail – Blank Space” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  139. ^ Young, Alex (ngày 18 tháng 8 năm 2015). “Ryan Adams has finished his Taylor Swift 1989 covers album, preview two songs” [Ryan Adams đã hoàn thành xong bản cover album 1989 của Taylor Swift, nghe trước hai ca khúc]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  140. ^ Winograd, Jeremy (ngày 21 tháng 10 năm 2015). “Review: Ryan Adams, 1989” [Đánh giá: Ryan Adams, 1989]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  141. ^ Zaleski, Annie (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams transforms Taylor Swift's 1989 into a melancholy masterpiece” [Ryan Adams biến 1989 của Taylor Swift thành kiệt tác u sầu]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  142. ^ Young, Alex (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Father John Misty covers Ryan Adams' cover of Taylor Swift's "Blank Space" (in the style of Velvet Underground)” [Father John Misty cover ca khúc "Blank Space" bản Ryan Adams của Taylor Swift (theo phong cách Velvet Underground)]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  143. ^ Gordon, Jeremy (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Father John Misty Takes on Ryan Adams, Covers Taylor Swift's 'Blank Space' in the Spirit of the Velvet Underground” [Father John Misty thể hiện lại Ryan Adams, cover 'Blank Space' của Taylor Swift bằng hồn nhạc của The Velvet Underground]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  144. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  145. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  146. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  147. ^ “Hot 100 Billboard Brasil – weekly” [Hot 100 Billboard Brasil – hàng tuần]. Billboard Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 17 tháng 1 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  148. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  149. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada CHR/Top 40)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  150. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada Hot AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  151. ^ Taylor Swift — Blank Space (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  152. ^ "Taylor Swift: Blank Space" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  153. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  154. ^ a b "Musicline.de – Taylor Swift Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  155. ^ “Taylor Swift Album & Chart History (Greece Digital Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng và album của Taylor Swift (Hy Lạp Digital Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  156. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  157. ^ “Taylor Swift Chart History” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift] (bằng tiếng Iceland). RÚV. ngày 11 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  158. ^ “Top Digital Download – Classifica settimanale WK 3 (dal 2015-01-12 al 2015-01-18)” [Tải xuống kỹ thuật số hàng đầu – Bảng xếp hạng hàng tuần ở tuần thứ 3 (từ 12-01-2015 đến 18-01-2015)] (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  159. ^ “Taylor Swift Chart History (Italy Digital Song Sales)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Doanh số bài hát kỹ thuật số ở Ý)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  160. ^ "Taylor Swift Chart History (Japan Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  161. ^ “Japan Adult Contemporary Airplay Chart” [Bảng xếp hạng phát thanh Adult Contemporary Nhật Bản]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  162. ^ "Taylor Swift Chart History (Luxembourg Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024 – qua Wayback Machine.
  163. ^ “Mexico Airplay : Feb 21, 2015” [Phát thanh ở Mexico : 21 tháng 2 năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  164. ^ "Nederlandse Top 40 – Taylor Swift" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  165. ^ “dutchcharts.nl – Taylor Swift – Blank Space” [Bảng xếp hạng dutchcharts.nl – Taylor Swift – Blank Space] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  166. ^ "Taylor Swift Chart History (Portugal Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024 – qua Wayback Machine.
  167. ^ “Airplay 100 – 1 februarie 2015” [Phát thanh 100 – 01/02/2015] (bằng tiếng Romania). Kiss FM. ngày 1 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  168. ^ “SloTop50 | Slovenian official singles weekly charts” [SloTop50 | Bảng xếp hạng đĩa đơn chính thức hàng tuần của Slovenia] (bằng tiếng Slovenia). slotop50.si. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  169. ^ “2014년 48주차 Digital Chart” [Bảng xếp hạng kỹ thuật số tuần 48 năm 2014] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  170. ^ "Spanishcharts.com – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  171. ^ a b "Swisscharts.com – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  172. ^ "Bảng xếp hạng Ukraina Airplay vào ngày 19 tháng 1 năm 2015" (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024 – qua Wayback Machine.
  173. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  174. ^ "Taylor Swift Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  175. ^ "Taylor Swift Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  176. ^ "Taylor Swift Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  177. ^ "Taylor Swift Chart History (Latin Airplay)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  178. ^ "Taylor Swift Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  179. ^ "Taylor Swift Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  180. ^ “Record Report - Rock General” [Báo cáo thu âm - Rock General] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Record Report. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  181. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Global 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  182. ^ a b “IFPI Charts – Digital Singles Chart (International) – Εβδομάδα: 43/2023” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Hy Lạp. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  183. ^ “Classifica settimanale WK 44” [Xếp hạng hàng tuần 44] (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  184. ^ “TOP 20 Most Streamed International Singles In Malaysia Week 10 (01/03/2024-07/03/2024)” [TOP 20 đĩa đơn quốc tế được streaming nhiều nhất Malaysia tuần 10 (01/03/2024-07/03/2024)] (bằng tiếng Anh). RIM. ngày 16 tháng 3 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024 – qua Facebook.
  185. ^ “Dutch Single Tip 22/07/2023” [Dutch Single ngày 22/07/2023] (bằng tiếng Hà Lan). dutchcharts.nl. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  186. ^ “NZ Top 40 Singles Chart” [Bảng xếp hạng NZ Top 40] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  187. ^ “Taylor Swift Chart History (Philippines Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Philippines Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  188. ^ “OLiS – oficjalna lista airplay” [OLiS – danh sách phát thanh chính thức] (Chọn tuần 06.01.2024–12.01.2024.) (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  189. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – Blank Space" (bằng tiếng Anh). AFP Top 100 Singles. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  190. ^ “RIAS Top Charts Week 44 (27 Oct – 2 Nov 2023)” [Bảng xếp hạng hàng đầu RIAS Tuần 44 (27 tháng 10 – 2 tháng 11 năm 2023)] (bằng tiếng Anh). RIAS. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  191. ^ “Veckolista Heatseeker, vecka 28” [Danh sách hàng tuần Heatseeker, tuần 28] (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  192. ^ "Official Audio Streaming Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  193. ^ “Hot 100: Week of August 26, 2023” [Hot 100: Tuần ngày 26 tháng 8 năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  194. ^ “Taylor Swift Chart History (Billboard Vietnam Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Billboard Vietnam Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  195. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Singles 2014” [Bảng xếp hạng cuối năm – ARIA Top 100 đĩa đơn 2014] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  196. ^ “Single Top 100 – eladási darabszám alapján – 2014” [Top 100 đĩa đơn - dựa trên số lượng đơn vị bán được - 2014] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  197. ^ “Top Selling Singles of 2014” [Đĩa đơn bán chạy nhất năm 2014] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  198. ^ “The Official Top 100 Biggest Songs of 2014 revealed” [Top 100 bài hát Official xuất sắc nhất năm 2014 được công bố] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  199. ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Singles 2015” [Bảng xếp hạng ARIA – Bảng xếp hạng cuối năm – Top 100 đĩa đơn 2015] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  200. ^ “Jahreshitparade Singles 2015” [Xếp hạng đĩa đơn năm 2015] (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  201. ^ “Jaaroverzichten 2015” [Xếp hạng năm 2015] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  202. ^ “Rapports Annuels 2015” [Báo cáo năm 2015] (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  203. ^ “Canadian Hot 100 Year End 2015” [Canada Hot 100 cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  204. ^ “Top de l'année Top Singles 2015” [Top đĩa đơn của năm 2015] (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  205. ^ “Top 100 Single – Jahrescharts” [Top 100 đĩa đơn – xếp hạng cuối năm] (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  206. ^ “Single Top 100 – eladási darabszám alapján – 2015” [Top 100 đĩa đơn - theo số lượng đơn vị bán ra - 2015] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  207. ^ “Top 100 – Jaaroverzicht van 2015” [Top 100 – Xếp hạng năm 2015] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  208. ^ “Jaaroverzichten - 3FM 2015” [Xếp hạng 3FM cuối năm 2015] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  209. ^ “Airplay – podsumowanie 2015 roku” [Phát thanh – tổng kết năm 2015] (bằng tiếng Ba Lan). Polish Society of the Phonographic Industry. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  210. ^ “SloTop50: Slovenian official year end singles chart” [SloTop50: Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối năm chính thức của Slovenia] (bằng tiếng Slovenia). slotop50.si. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  211. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2015 – hitparade.ch” [Xếp hạng bài hát cuối năm 2015 của Thụy Sĩ – hitparade.ch] (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  212. ^ “End of Year Singles Chart Top 100 – 2015” [Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối năm Top 100 – 2015] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  213. ^ “Hot 100: Year End 2015” [Hot 100: Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  214. ^ “Adult Contemporary Songs Year End 2015” [Adult Contemporary Songs cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  215. ^ “Adult Pop Songs Year End 2015” [Adult Pop Songs cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  216. ^ “Pop Songs Year End 2015” [Pop Songs cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  217. ^ “As 100 Mais Tocadas nas Rádios Jovens em 2016” [100 bài hát được phát nhiều nhất trên đài phát thanh nhạc trẻ năm 2016]. Billboard Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 4 tháng 1 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  218. ^ “ARIA Top 100 Singles Chart for 2023” [Bảng xếp hạng 100 đĩa đơn hàng đầu ARIA năm 2023] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  219. ^ Billboard Global 200 – Year-End 2023” [Billboard Global 200 – Cuối năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  220. ^ “2019 ARIA End of Decade Singles Chart” [Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối thập niên ARIA 2019] (bằng tiếng Anh). ARIA Charts. tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  221. ^ “Decade-End Charts: Hot 100 Songs” [Bảng xếp hạng cuối thập niên: Bài hát của Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  222. ^ “Greatest of All Time Hot 100 Songs” [100 bài hát hay nhất mọi thời đại]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  223. ^ “Greatest of All Time Pop Songs” [100 bài hát pop hay nhất mọi thời đại]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  224. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Áo – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2024.
  225. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  226. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. ngày 16 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  227. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift; 'Blank Space')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2024.
  228. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024. Chọn "2019" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Blank Space" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
  229. ^ “Chứng nhận đĩa đơn kỹ thuật số Nhật Bản – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024. Chọn 2018年7月 ở menu thả xuống
  230. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024. Nhập Taylor Swift ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Blank Space ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  231. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Na Uy – Taylor Swift – Blank Space” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  232. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2021 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  233. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Bồ Đào Nha – Taylor Swift – Blank Space” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  234. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Tây Ban Nha – Taylor Swift – Blank Space”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  235. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Blank Space')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  236. ^ Aswad, Jem; Willman, Chris (ngày 19 tháng 11 năm 2018). “Taylor Swift Signs New Deal With Universal Music Group” [Taylor Swift ký hợp đồng mới với Universal Music Group]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  237. ^ Melas, Chloe (ngày 16 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Speaks Out About Sale of Her Masters” [Taylor Swift lên tiếng về việc bán bản thu của mình] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  238. ^ “Taylor Swift Wants to Re-Record Her Old Hits” [Taylor Swift muốn thu âm lại những bản hit cũ của mình] (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  239. ^ Finnis, Alex (ngày 17 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Masters: The Controversy around Scooter Braun Selling the Rights to Her Old Music Explained” [Bản thu tác phẩm Taylor Swift: Tranh cãi xung quanh việc Scooter Braun bán bản quyền âm nhạc cũ của cô ấy đã được giải thích]. i (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  240. ^ Shah, Neil (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Releases New Fearless Album, Reclaiming Her Back Catalog” [Taylor Swift phát hành album mới Fearless, đòi lại danh mục âm nhạc cũ của cô]. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  241. ^ Espada, Mariah (ngày 6 tháng 7 năm 2023). “Taylor Swift Is Halfway Through Her Rerecording Project. It's Paid Off Big Time” [Taylor Swift đã đi được nửa chặng đường trong dự án thu âm lại. Công việc đã được đền đáp xứng đáng]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  242. ^ Vassell, Nicole (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift Fans Celebrate As Pop Star Releases 1989 (Taylor's Version) [Người hâm mộ Taylor Swift ăn mừng khi ngôi sao nhạc Pop phát hành 1989 (Taylor's Version)]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  243. ^ D'Souza, Shaad (ngày 30 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) Album Review” [Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) Đánh giá album]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  244. ^ a b Taylor Swift (2023). 1989 (Taylor's Version) [1989 (Phiên bản của Taylor)] (Bìa đĩa CD) (bằng tiếng Anh). Republic Records. 0245597656.
  245. ^ Barnes, Kelsey (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) [Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version)]. The Line of Best Fit (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  246. ^ White, Adam (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift review, 1989 (Taylor's Version): A pop classic is re-recorded to diminishing returns” [Đánh giá album Taylor Swift, 1989 (Taylor’s Version): Bản ca nhạc pop được tái thu âm theo quy luật hiệu suất giảm dần]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  247. ^ Geraghty, Hollie (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift – 1989 (Taylor's Version) Review: Her Best Album Will Never Go Out of Style” [Taylor Swift – Đánh giá 1989 (Taylor's Version): Album hay nhất của cô ấy sẽ không bao giờ lỗi mốt]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  248. ^ Trust, Gary (ngày 6 tháng 11 năm 2023). “Taylor Swift Makes History With Top 6 Songs, All From 1989 (Taylor's Version), on Billboard Global 200 Chart” [Taylor Swift làm nên lịch sử với top 6 ca khúc đều từ 1989 (Taylor's Version) trên bảng xếp hạng Billboard Global 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  249. ^ a b “ARIA Top 50 Singles Chart” [Bảng xếp hạng ARIA Top 50 đĩa đơn] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. ngày 6 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  250. ^ a b “NZ Top 40 Singles Chart” [Bảng xếp hạng 40 đĩa đơn hàng đầu của New Zealand] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. ngày 6 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  251. ^ Zellner, Xander (ngày 6 tháng 11 năm 2023). “Taylor Swift Charts All 21 Songs From 1989 (Taylor's Version) on the Hot 100” [Taylor Swift lọt xếp hạng tất cả 21 bài hát từ 1989 (Taylor's Version) trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  252. ^ “Taylor Swift Chart History (Brasil Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Brasil Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  253. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Blank Space (Taylor's Version)" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  254. ^ “Greece Digital Singles Chart (International)” [Bảng xếp hạng Hy Lạp Digital Singles (International)] (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Hy Lạp. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  255. ^ “Taylor Swift Chart History (Ireland Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Ireland Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  256. ^ “Taylor Swift Chart History (Malaysia Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Malaysia Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  257. ^ “TOP 20 Most Streamed International Singles In Malaysia Week 44 (27/10/2023- 02/11/2023)” [TOP 20 đĩa đơn quốc tế được streaming nhiều nhất Malaysia tuần 44 (27/10/2023- 02/11/2023)] (bằng tiếng Anh). RIM. ngày 11 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024 – qua Facebook.
  258. ^ “This Week's Official MENA Chart Top 20: from 27/10/2023 to 02/11/2023” [Bảng xếp hạng MENA chính thức tuần này Top 20: từ 27/10/2023 đến 11/02/2023] (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. ngày 27 tháng 10 năm 2023. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  259. ^ “Taylor Swift Chart History (Philippines Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Philippines Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  260. ^ "Spanishcharts.com – Taylor Swift – Blank Space (Taylor's Version)" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  261. ^ "Swedishcharts.com – Taylor Swift – Blank Space (Taylor's Version)" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  262. ^ “This Week's Official UAE Chart Top 20: from 27/10/2023 to 02/11/2023” [Bảng xếp hạng chính thức của UAE tuần này Top 20: từ 27/10/2023 đến 11/02/2023] (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. ngày 27 tháng 10 năm 2023. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  263. ^ “Taylor Swift Chart History (U.K. Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (U.K. Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  264. ^ "Official Singles Downloads Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  265. ^ “Official Singles Sales Chart Top 100” [Bảng xếp hạng doanh số đĩa đơn Official Top 100] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  266. ^ “Official Streaming Chart Top 100” [Bảng xếp hạng phát trực tuyến đĩa đơn Official Top 100] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  267. ^ “Taylor Swift Chart History (Billboard Vietnam Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Billboard Vietnam Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  268. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Taylor Swift – Blank Space (Taylor's Version)” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2024.
  269. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – Blank Space (Taylor's Version)” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2024.

Nguồn

Read other articles:

مصطفى نيم معلومات شخصية الميلاد 5 مايو 1995 (العمر 28 سنة)داكار  الطول 1.85 م (6 قدم 1 بوصة) مركز اللعب وسط الجنسية السنغال  معلومات النادي النادي الحالي بافوس الرقم 25 المسيرة الاحترافية1 سنوات فريق م. (هـ.) 2016–2018 اتحاد دوانس 2018–2020 باو 56 (9) 2020–2022 باريس 67 (11) 2022– بافوس 1 الم

 

Municipality in Espírito Santo, BrazilPresidente Kennedy, Espírito SantoMunicipalityThe Municipality of Presidente KennedyMarobá Beach FlagSealNickname: terra do extremo sul (extremy south land)Motto(s): Antes sonho agora realidade (Before, a dream, now, a reality)Location of Presidente Kennedy in the State of Espírito SantoCoordinates: 21°05′56″S 41°02′48″W / 21.09889°S 41.04667°W / -21.09889; -41.04667Country BrazilState Espírito Santo...

 

Esta página cita fontes, mas que não cobrem todo o conteúdo. Ajude a inserir referências. Conteúdo não verificável pode ser removido.—Encontre fontes: ABW  • CAPES  • Google (N • L • A) (Fevereiro de 2021) Ligação de hidrogênio entre moléculas de água. Ligação de hidrogênio é um tipo de interação intermolecular que se dá entre átomos de hidrogênio de uma molécula com átomos de elementos altamente eletronega...

Artikel ini tidak memiliki referensi atau sumber tepercaya sehingga isinya tidak bisa dipastikan. Tolong bantu perbaiki artikel ini dengan menambahkan referensi yang layak. Tulisan tanpa sumber dapat dipertanyakan dan dihapus sewaktu-waktu.Cari sumber: Jalan raya – berita · surat kabar · buku · cendekiawan · JSTOR Jalan raya ialah jalan utama yang menghubungkan satu kawasan dengan kawasan yang lain. Biasanya jalan besar ini mempunyai ciri-ciri berikut:...

 

مبارك راعي الفحماء معلومات شخصية اسم الولادة مبارك فالح رجعان راعي الفحماء تاريخ الميلاد سنة 1937  تاريخ الوفاة 1 سبتمبر 2004 (74 سنة) الجنسية  الكويت الحياة العملية المهنة سياسي  الحزب مستقل - قبلي تعديل مصدري - تعديل   مبارك فالح رجعان راعي الفحماء، من مواليد 1937، وتوفي...

 

Der Titel dieses Artikels ist mehrdeutig. Weitere Bedeutungen sind unter Štrba (Begriffsklärung) aufgeführt. Csorba ist eine Weiterleitung auf diesen Artikel. Zum ungarischen Radrennfahrer siehe András Csorba. Štrba Wappen Karte Štrba (Slowakei) Štrba Basisdaten Staat: Slowakei Slowakei Kraj: Prešovský kraj Okres: Poprad Region: Liptov Fläche: 63,076 km² Einwohner: 3.364 (31. Dez. 2022) Bevölkerungsdichte: 53 Einwohner je km² Höhe: 829 m n.m. Postleitzahl: 059 38 ...

Nama ini menggunakan cara penamaan Spanyol: nama keluarga pertama atau paternalnya adalah Gorostiza dan nama keluarga kedua atau maternalnya adalah Rodríguez. Carlos Gorostiza RodríguezLahir(1920-06-07)7 Juni 1920Buenos Aires, ArgentinaMeninggal19 Juli 2016(2016-07-19) (umur 96)Buenos Aires, ArgentinaPekerjaanPengarang drama, pengarah teater, novelisTahun aktif1943–2016 Carlos Gorostiza Rodríguez (pengucapan bahasa Spanyol: [ˈkaɾloz ɣoɾosˈtisa roˈðɾiɣes]; 7 J...

 

1975 studio album by Johnny CashThe Johnny Cash Children's AlbumStudio album by Johnny CashReleasedJanuary 1975RecordedJanuary 1972–October 1973Genre Country children's Length35:33LabelColumbiaProducerJohnny Cash, Charlie Bragg, Larry ButlerJohnny Cash chronology Five Feet High and Rising(1974) The Johnny Cash Children's Album(1975) Johnny Cash Sings Precious Memories(1975) Professional ratingsReview scoresSourceRatingAllmusic[1] The Johnny Cash Children's Album is the 49th ...

 

This article needs to be updated. Please help update this article to reflect recent events or newly available information. (January 2016) Districts of Uttar Pradesh, grouped by division Uttar Pradesh, the most populous state in India, has 75 districts. These districts, most of which have populations above 12 lakhs, are grouped into 18 divisions for administrative convenience. Area-wise listing of districts Code[1] District[2] Headquarters Formed Population[3] Area[...

هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (سبتمبر 2017) ريفر ألكسندر معلومات شخصية الميلاد 29 نوفمبر 1999 (العمر 24 سنة)فلوريدا، الولايات المتحدة مواطنة الولايات المتحدة  الحياة العملية المهنة ممثل اللغة الأم الإن

 

Georgina Mace Georgina Mace lahir di London (Inggris) pada tahun 1953. Pada tahun 1976, ia memperoleh gelar sarjana bidang zoologi di Universitas Liverpool. Tiga tahun kemudian, ia dianugerahi gelar Ph.D di Universitas Sussex untuk studi ekologi evolusioner mamalia kecil. Mace kemudian meneliti dampak kawin sedarah pada populasi hewan di kebun binatang di Institusi Smithsonian Amerika Serikat. Pada tahun 2000, ia menjadi direktur ilmiah Institut Zoologi di London. Pada tahun 2006, ia diangkat...

 

For other places called Headley, see Headley (disambiguation). Human settlement in EnglandHeadleyThe grotto at St Mary's Church, Headley, was constructed in the 19th century using materials from the demolished medieval church.Cricket is played in the village.HeadleyLocation within SurreyArea6.75 km2 (2.61 sq mi)Population643 (Civil Parish 2011)[1]• Density95/km2 (250/sq mi)OS grid referenceTQ205545Civil parishHeadley [2]DistrictMole Va...

село Замай-Юрт Замай-Юрт Країна  Росія Суб'єкт Російської Федерації Чечня Муніципальний район Ножай-Юртовський район Поселення Замай-Юртовське сільське поселення Код ЗКАТУ: 96225893001 Код ЗКТМО: 96625493101 Основні дані Населення ▲ 1981 (2019)[1] Поштовий індекс 366222 Географічні...

 

Location of the Dutch Caribbean islands   Aruba   Curaçao   Sint Maarten   Caribbean Netherlands (from left to right): BonaireSabaSint Eustatius A view showing the National Park of St. Eustius (The Quill/Boven National Park and St. Eustatius National Marine Park. The Dutch Caribbean Nature Alliance (DCNA) is a regional partnership of conservation organisations, including the national parks on the six islands of the Dutch Caribbean (Aruba, Bonaire, Cura...

 

River in Germany You can help expand this article with text translated from the corresponding article in German. (March 2019) Click [show] for important translation instructions. View a machine-translated version of the German article. Machine translation, like DeepL or Google Translate, is a useful starting point for translations, but translators must revise errors as necessary and confirm that the translation is accurate, rather than simply copy-pasting machine-translated text into the...

Indian actor Abu SalimSalim at an eventBorn (1956-05-11) 11 May 1956 (age 67)Malabar District, Madras State (present day Wayanad, Kerala), IndiaNationalityIndianOccupationsActorSub-inspector in Kerala PoliceYears active1976–presentSpouse Ummukulsu ​(m. 1982)​Children2ParentsKunhammedFathima Abu Salim (born 11 May 1956) is an Indian actor who predominantly works in the Malayalam cinema, in which he has played villains roles and other characters. He has ...

 

Ella Little-Collins in an undated photo Ella Little-Collins (1914 – 1996) was an American civil rights activist and the half-sister of Malcolm X.[1] She was born in Butler, Georgia, to Earl Little and Daisy Little (née Mason); her paternal grandparents were John (Big Pa) Lee Little and Ella Little (née Gray), and her siblings were Mary Little and Earl Lee Little Jr. She had seven half-siblings from her father's second marriage: Wilfred, Philbert, Hilda, Reginald, Malcolm, Wesley, ...

 

Biografi ini tidak memiliki sumber tepercaya sehingga isinya tidak dapat dipastikan. Bantu memperbaiki artikel ini dengan menambahkan sumber tepercaya. Materi kontroversial atau trivial yang sumbernya tidak memadai atau tidak bisa dipercaya harus segera dihapus.Cari sumber: Tara Reid – berita · surat kabar · buku · cendekiawan · JSTOR (Pelajari cara dan kapan saatnya untuk menghapus pesan templat ini) Tara ReidTara ReidLahirTara Donna Reid8 November 19...

American politician Henry Parsons10th & 12th Mayor of MarlboroughIn office1908–1909Preceded byEdward F. BrownSucceeded byJohn J. ShaughnessyIn officeJanuary 2, 1905[1] – 1906Preceded byFrederick R. S. MildonSucceeded byEdward F. BrownMember of the Massachusetts Senate[2]In office1897–1898 Personal detailsPolitical partyRepublican[3]Military serviceAllegianceUnited StatesUnionBranch/serviceUnited States ArmyUnion ArmyYears of service1862–1865Ra...

 

2009 studio album by Memory TapesSeek MagicStudio album by Memory TapesReleasedAugust 24, 2009GenreChillwavedance-popLength40:20LabelSomething in ConstructionMemory Tapes chronology Seek Magic(2009) Player Piano(2011) Seek Magic is the debut studio album by American musician Dayve Hawke under the alias Memory Tapes. It was released on August 24, 2009[1] by the label Something in Construction. The cover art features an image of the painting Mirage by Tomory Dodge.[2] Re...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!