USS Dashiell (DD-659) là một tàu khu trụclớp Fletcher được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Robert B. Dashiell (1860–1899), sĩ quan Trợ lý Kiến trúc Hải quân Hoa Kỳ. Nó hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, ngừng hoạt động một thời gian ngắn, rồi lại tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Lạnh từ năm 1951 đến năm 1960; nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1975. Dashiell được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Dashiell đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 7 năm 1943 để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58, và đã tham gia các cuộc không kích xuống đảo Marcus từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9; Tarawa từ ngày đến ngày 18 đến ngày 20 tháng 9; và đảo Wake trong các ngày 5 và 6 tháng 10. Đi đến Efate thuộc quần đảo New Hebrides vào ngày 5 tháng 11, nó chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên quần đảo Gilbert, và đã là một trong những tàu đầu tiên tiến vào vũng biển trong Trận Tarawa vào ngày 20 tháng 11. Chịu đựng hỏa lực pháo chống trả ác liệt của đối phương, con tàu đã chiếm lấy vị trí ngoài khơi dãy san hô của Tawara, và nả pháo xuống các khẩu đội pháo đối phương, các cứ điểm phòng thủ và vào một kho đạn để trợ giúp lực lượng trên bờ trong ba ngày. Sau khi chiến dịch kết thúc, nó được gửi về vùng bờ Tây để đại tu.
Dashiell sau đó hoạt động tại Morotai, một bước cần thiết cho chặng đường nhằm tái chiếm Philippines. Con tàu đã tuần tra và hộ tống các tàu vận tải trong cuộc đổ bộ tại đây vào các ngày 18 và 19 tháng 9, rồi trong cuộc đổ bộ lực lượng tăng cường vào ngày 1 tháng 10. Sau đó nó tham gia Lực lượng Tấn công phía Bắc trong cuộc đổ bộ ban đầu lên Leyte tại vịnh San Pedro vào ngày 20 tháng 10, rồi rút lui về New Guinea để hộ tống các đoàn tàu vận chuyển lực lượng tăng viện, và đổ bộ chúng lên Leyte từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 11. Nó lại hộ tống các chuyến vận tải binh linh và tiếp liệu từ các căn cứ ở New Guinea đến Leyte từ ngày 24 tháng 11 đến ngày 9 tháng 12. Ba ngày sau, nó rời vịnh Leyte hộ tống một lực lượng tấn công cho cuộc đổ bộ lên Mindoro. Sang ngày thứ hai của trận chiến tại đây, một máy bay tấn công cảm tử Kamikaze đã đâm vào soái hạm của lực lượng, nên cờ hiệu chỉ huy hải đội được chuyển sang Dashiell để chỉ đạo cuộc đổ bộ vào ngày 15 tháng 12. Khi quay trở lại Leyte, nó tham gia đánh trả một cuộc không kích đối phương vào ngày 20 tháng 12, nơi sáu người của nó bị thương trong trận này.
1945
Đi đến vịnh Lingayen, Luzon vào ngày 9 tháng 1 năm 1945 để tham gia giai đoạn mở màn của Trận Luzon, Dashiell ở lại đây làm nhiệm vụ tuần tra và bắn hỏa lực hỗ trợ cho đến ngày 10 tháng 2. Nó đã bắn rơi ít nhất ba máy bay tấn công tự sát, đánh chìm nhiều tàu Nhật Bản nhỏ, và phá hủy các mục tiêu trên bờ. Nó đi đến Ulithi vào ngày 28 tháng 2 để gia nhập lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh trực thuộc Đệ Ngũ hạm đội cho đợt không kích xuống Nhật Bản và Okinawa trong tháng 3, nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ sắp tới. Nó đã bảo vệ cho cuộc tấn công vào ngày 1 tháng 4, và tiếp tục ở lại ngoài khơi hòn đảo để làm nhiệm vụ cột mốc radar canh phòng. Cao điểm của trận chiến mà nó chịu đựng là vào ngày 14 tháng 4, khi 20 máy bay Kamikaze lao đến trạm canh phòng của nó; nó đã bắn rơi bốn chiếc và cơ động né tránh số còn lại, nhưng cũng bị hư hại bởi một quả bom suýt trúng sát cạnh tàu và phải rút lui về Ulithi vào ngày 23 tháng 4 để sửa chữa.