Đài Truyền hình Việt Nam, được biết đến rộng rãi với tên gọi VTV (viết tắt của từ tiếng Anh: Vietnam Television), là đài truyền hình quốc gia thuộc sở hữu của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đài chịu sự quản lý của Chính phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có nhiệm vụ "tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và Quốc hội, góp phần giáo dục, nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân".[1] Tuy không phải là đài truyền hình đầu tiên của Việt Nam, nhưng đây được coi là đài truyền hình lớn và uy tín nhất của Việt Nam với 11 kênh truyền hình quảng bá và hệ thống kênh truyền hình cáp được phủ sóng toàn quốc, phát sóng chủ yếu các chương trình tin tức, phim tài liệu, khoa học, giáo dục xã hội, hài kịch, thể thao, giải trí và chính kịch.
VTV hiện đã phủ sóng được qua nhiều nền tảng khác nhau, phát sóng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước như Lào, Trung Quốc, Thái Lan,...[2][3] và các nước trên thế giới qua vệ tinh và các ứng dụng xem trực tuyến của đài.
Tên viết tắt chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam là VTV, được sử dụng từ năm 1990. 3 chữ cái in hoa VTV đè lên nhau được dùng làm biểu tượng của Đài từ năm 1995, lần lượt được thể hiện bằng 3 màu đỏ, xanh lá, xanh lam, tượng trưng cho 3 màu cơ bản trên màn hình máy truyền hình màu. Biểu trưng này đã được thiết kế lại vào các năm 2010 và 2012. VTV là viết tắt tên gọi tiếng Anh của "Vietnam Television" và cũng là viết tắt tên gọi tiếng Việt của "Vô tuyến Truyền hình Việt Nam".[4]
Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Lâm thời đã thành lập Bộ phận Điện ảnh và Nhiếp ảnh thuộc Bộ thông tin - Tuyên truyền; hoạt động chủ yếu của bộ phận này là tổ chức đoàn chiếu phim lưu động chiếu ở những nơi công cộng và lập toa xe điện ảnh đi chiếu phim dọc Quốc lộ 1 từ Bắc vào Nam bằng một máy chiếu Débri 16mm và hai bộ phim tài liệu về phái đoàn Phạm Văn Đồng tại Pháp do Việt kiều gửi về.[5]
Năm 1953, tại chiến khu Việt Bắc, Chính phủ thành lập Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh, nhưng các nhà làm phim thời kỳ này mới sản xuất được các phim tài liệu ngắn, như Giữ làng giữ nước (1953), Điện Biên Phủ (1954). Năm 1956, Xưởng phim thời sự tài liệu tách khỏi Xưởng phim Việt Nam và đến năm 1989 thì đổi tên thành Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương (DSF).[5]
Từ giữa năm 1965, Mỹ đã tăng cường phạm vi tuyên truyền bằng cách xây dựng một hệ thống các đài truyền hình để tuyên truyền cho bản thân và Chính quyền Sài Gòn. Để ứng phó, từ năm 1967, Đài Tiếng nói Việt Nam đã bắt đầu chuẩn bị cho việc thành lập một đài truyền hình đại diện cho miền Bắc. Nhà báo Trần Lâm – lúc đó đang là giám đốc của Đài Tiếng nói Việt Nam – đã ký hiệp định hợp tác với Viện Phát thanh Truyền hình Cuba, 18 nhân viên của đài đã được gửi sang đào tạo tại Cuba để học tập các khâu làm truyền hình. Năm 1968, Xưởng phim Vô tuyến truyền hình được thành lập, có nhiệm vụ sản xuất phim vô tuyến truyền hình (16mm) để gửi cho các đài truyền hình nước ngoài tuyên truyền về cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước tại Việt Nam.[5]
Ngày 7 tháng 9 năm 1970, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát sóng tín hiệu truyền hình đầu tiên, sang năm 1971 thì thành lập Ban biên tập Vô tuyến truyền hình. Ngày 30 Tết Tân Hợi (27 tháng 1 năm 1971), VOV phát chương trình truyền hình đầu tiên, gọi là "chương trình truyền hình thử nghiệm" phục vụ khán giả thủ đô Hà Nội.[6] Ban đầu truyền hình phát mỗi tuần ba buổi tối, mỗi tối hai tiếng đồng hồ. Đến năm 1972, việc phát sóng bị gián đoạn do chiến sự leo thang và Đài Tiếng nói Việt Nam bắt buộc phải sơ tán. Năm 1973, VOV phát sóng chương trình đầu tiên trên màn hình đen trắng. Năm 1975, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Giải phóng A đã cùng Đài giải phóng B Đông Nam Bộ đã tiếp quản toàn bộ hệ thống phát thanh, truyền hình của chế độ Sài Gòn để lại.[5]
Năm 1976, Trung tâm Truyền hình được xây dựng tại Giảng Võ; một năm sau đó, Ban biên tập Vô tuyến truyền hình được tách khỏi Đài Tiếng nói Việt Nam, thành lập Đài Truyền hình Trung ương và chuyển trụ sở tới đây. Cuối những năm 1970, đài đã bắt đầu phát sóng các chương trình truyền hình màu (hệ SECAM) với thời lượng giới hạn nhằm mục đích thử nghiệm, đào tạo đội ngũ và phục vụ một số lượng ít các máy thu hình màu hiện có vào thời điểm đó.[7] Trong giai đoạn này, đài chuyển dần từ phát sóng đen-trắng sang phát sóng truyền hình màu, đồng thời xây dựng Đài Tiếp vận Tam Đảo để phủ sóng toàn miền Bắc và hỗ trợ xây dựng các đài truyền hình địa phương.[5]
Năm 1987, Đài Truyền hình Trung ương đổi tên thành Đài Truyền hình Việt Nam. Năm 1990, đài bắt đầu phát sóng kênh truyền hình thứ hai, từ đây kênh được chia thành Chương trình 1 và Chương trình 2 (sau này là VTV1 và VTV2). Ngày 4 tháng 2 năm 1991, kênh VTV1 bắt đầu được phát sóng trên vệ tinh Stationar 13 với thời lượng 5 giờ mỗi ngày để các đài địa phương thu và phát lại trên phạm vi toàn quốc.[6][8]
Kênh VTV3 được thành lập năm 1994, đến năm 1996 thì được phát triển và đầu tư sản xuất nội dung, trở thành kênh truyền hình văn hoá, thể thao và giải trí; năm 1998 kênh này được tách sóng thành một kênh riêng, và được phủ sóng vệ tinh đến các địa phương trên toàn quốc. Các kênh VTV4, VTV5 (cùng các kênh khu vực), VTV6, VTV7, VTV8, VTV9, VTV Cần Thơ bắt đầu lên sóng lần lượt trong các năm sau đó.[5]
VTV3 là kênh đầu tiên được phát sóng theo chuẩn HD từ năm 2013, các kênh còn lại cũng lần lượt được nâng chuẩn phát sóng trong vài năm tiếp theo.[5] Từ năm 2016 đến nay, các kênh đều được phát sóng dưới hai tín hiệu SD và HD song song. Từ ngày 1 đến 7 tháng 1 năm 2020, Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện đồng bộ biểu trưng luồng kênh SD và HD cho tất cả các kênh (ngoại trừ kênh VTV5 Tây Nam Bộ và VTV5 Tây Nguyên). Đến ngày 8 tháng 1 năm 2020, các kênh từ VTV1 đến VTV7 và VTV9 từ 10 tháng 1 cùng năm (trừ VTV8) đã trở lại phát song song 2 tín hiệu SD và HD với biểu trưng riêng biệt, trước khi chính thức thực hiện đồng bộ hai luồng kênh một lần nữa vào ngày 1 tháng 11 năm 2022.
Cũng trong giai đoạn này, với tư cách là đơn vị truyền hình chủ nhà, đài đã thực hiện nhiều chương trình về những sự kiện quan trọng của đất nước, như Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003 (tổ chức truyền hình trực tiếp trên bốn kênh VTV1, VTV2, VTV3 và VTV4), Hội nghị APEC các năm 2006 và 2017, hay Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên – Hoa Kỳ tại Hà Nội 2019. Ngày 30 tháng 4 năm 1995 đánh dấu lần đầu tiên VTV thực hiện cuộc truyền hình trực tiếp một sự kiện chính trị – lịch sử quan trọng với lễ kỷ niệm 20 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước.
Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ, quy định của Chính phủ về cơ quan thuộc Chính phủ và các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
1. Xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn, hàng năm và các dự án, đề án quan trọng khác của Đài Truyền hình Việt Nam và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
2. Nghiên cứu, đề xuất xây dựng, trình cấp có thẩm quyền công bố tiêu chuẩn quốc gia; ban hành tiêu chuẩn cơ sở theo quy định của pháp luật.
3. Tổ chức sản xuất, truyền dẫn, phát sóng, phát hành, lưu trữ các chương trình truyền hình, báo điện tử, báo in theo quy định của pháp luật.
4. Tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí, phát thanh, truyền hình.
5. Quyết định và chịu trách nhiệm nội dung, chương trình và thời lượng phát sóng hàng ngày trên các kênh chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam theo quy định của pháp luật.
6. Quản lý trực tiếp hệ thống kỹ thuật chuyên dùng của Đài Truyền hình Việt Nam để sản xuất nội dung; truyền dẫn tín hiệu trên hạ tầng viễn thông, internet băng thông rộng; phát sóng trên các phương thức truyền hình vệ tinh, mặt đất và mạng truyền hình cáp; cung cấp trên nền tảng số của Đài Truyền hình Việt Nam và nền tảng số khác các chương trình, kênh chương trình ở trong nước và ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.
7. Thông tin đối ngoại bằng tiếng Việt, tiếng nước ngoài cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài bằng các chương trình, kênh truyền hình và các loại hình báo chí, truyền thông.
8. Chủ trì, phối hợp với các đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình địa phương về kế hoạch sản xuất các chương trình phát trên kênh chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam.
9. Quản lý, quyết định các dự án đầu tư và xây dựng thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc chuyên môn, nghiệp vụ được Thủ tướng Chính phủ giao.
10. Đài Truyền hình Việt Nam áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, số lượng người làm việc; thực hiện cơ chế tài chính, tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp nhà nước; hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
11. Phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế tài chính của Đài Truyền hình Việt Nam theo quy định của pháp luật.
12. Thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
13. Tổ chức thực hiện nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, chuyển đổi số trong hoạt động của Đài Truyền hình Việt Nam; nghiên cứu, xây dựng nền tảng truyền hình số (trực tuyến) ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, chuyển đổi số để phát huy sự tham gia, sáng tạo nội dung của khán giả.
14. Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và đào tạo nghề lĩnh vực truyền hình và truyền thông; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực truyền hình và truyền thông đa phương tiện khác theo quy định của pháp luật.
15. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Đài Truyền hình Việt Nam theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
16. Quản lý tổ chức bộ máy, viên chức và người lao động; quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của Đài Truyền hình Việt Nam theo quy định của pháp luật.
17. Quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công theo quy định của pháp luật.
18. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp luật.
19. Tổ chức các hoạt động cung cấp dịch vụ theo quy định của pháp luật.
20. Thực hiện chế độ báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ được giao quản lý nhà nước về báo chí và các cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
21. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Đài Truyền hình Việt Nam đóng vai trò cơ quan truyền thông chủ lực trực thuộc Nhà nước, dưới sự đồng quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về báo chí, trực thuộc Chính phủ Việt Nam. Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo quy định. Đài Truyền hình Việt Nam có quan hệ với các đài truyền hình trực thuộc tỉnh và thành phố do chính quyền địa phương điều hành.
Tổng Giám đốc
Vào đêm Giao thừa âm lịch (30 Tết hoặc 29 Tết), tất cả các kênh của VTV sẽ chập thành một kênh duy nhất (VTV) để phát sóng các chương trình chia tay năm cũ, chào năm mới âm lịch cho đến rạng sáng mùng 1 Tết (riêng VTV Cần Thơ tách sóng và tắt sóng ngay sau đó).
Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam có 56 kênh truyền hình trả tiền thuộc các hệ thống VTVCab, K+, SCTV.
{{Chú thích web}}
|url hỏng=
..., kể từ khi bắt đầu phát sóng thử nghiệm qua vệ tinh ngày 10/2/2002, chương trình truyền hình tiếng dân tộc đã duy trì đều đặn với 3 buổi phát sóng mỗi tuần...
|date=
RTB · TVK · TVRI · LNTV · RTM · MRTV · PTV . PBS/BBS · Mediacorp · NBT . TPBS · RTTL · VTV