USS Gambier Bay (CVE-73)

USS Gambier Bay
Tàu sân bay hộ tống USS Gambier Bay (CVE-73)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Gambier Bay (CVE-73)
Xưởng đóng tàu Kaiser Shipyards, Vancouver, Washington
Đặt lườn 10 tháng 7 năm 1943
Hạ thủy 22 tháng 11 năm 1943
Nhập biên chế 28 tháng 12 năm 1943
Xóa đăng bạ 27 tháng 11 năm 1944
Danh hiệu và phong tặng
Số phận Bị đánh chìm trong Trận chiến ngoài khơi Samar, 25 tháng 10 năm 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu sân bay hộ tống Casablanca
Trọng tải choán nước
  • 7.800 tấn Anh (7.900 t) (tiêu chuẩn)
  • 10.902 tấn Anh (11.077 t) (đầy tải)
Chiều dài 512 ft 4 in (156,16 m) (chung)
Sườn ngang
  • 65 ft 3 in (19,89 m) (mực nước)
  • 108 ft 1 in (32,94 m) (chung)
Mớn nước 22 ft 6 in (6,86 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × động cơ hơi nước Skinner Uniflow, năm buồng bành trướng đặt dọc
  • 4 × nồi hơi, áp lực 285 psi (1.970 kPa)
  • 2 × trục
  • công suất 9.000 shp (6.700 kW)
Tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph)
Tầm xa 10.240 nmi (18.960 km; 11.780 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 860 sĩ quan và thủy thủ
  • đội bay 56 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí
Máy bay mang theo 28 máy bay

USS Gambier Bay (CVE-73) là một tàu sân bay hộ tống lớp Casablanca được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo một vịnh tại đảo Admiralty thuộc quần đảo Alexander, Alaska. Gambier Bay đã hoạt động trong Thế Chiến II cho đến khi bị đánh chìm trong Trận chiến ngoài khơi Samar vào ngày 25 tháng 10 năm 1944, trở thành chiếc tàu sân bay Hoa Kỳ duy nhất bị đánh chìm bởi hải pháo đối phương. Nó được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Gambier Bay nguyên dự định mang ký hiệu lườn AVG-73, nhưng được xếp lại lớp thành ACV-73 vào ngày 20 tháng 8 năm 1942 trước khi được đặt lườn tại Xưởng tàu Vancouver của hãng Kaiser Company, Inc.Vancouver, Washington vào ngày 10 tháng 7 năm 1943. Nó lại được xếp lớp thành CVE-73 vào ngày 15 tháng 7 trước khi được hạ thủy vào ngày 22 tháng 11 năm 1943; được đỡ đầu bởi bà H. C. Zitzewitz, phu nhân Trung tá Hải quân Zitzewitz, sĩ quan liên lạc cao cấp Văn phòng Tàu chiến Hải quân tại xưởng tàu Vancouver; và nhập biên chế tại Astoria, Oregon vào ngày 28 tháng 12 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân Hugh H. Goodwin.

Lịch sử hoạt động

Trung tâm và Tây Nam Thái Bình Dương

Mô hình Gambier Bay tại Bảo tàng USS Midway

Sau chuyến đi chạy thử máy ngoài khơi San Diego, California, Gambier Bay lên đường vào ngày 7 tháng 2 năm 1944 cùng 400 binh lính trên tàu để hướng sang Trân Châu Cảng, rồi cùng tàu khu trục Norman Scott đi đến điểm gặp gỡ tại quần đảo Marshall, nơi nó chuyển giao 84 máy bay thay thế cho tàu sân bay Enterprise. Nó quay trở về San Diego ngang qua Trân Châu Cảng, vận chuyển máy bay cần sửa chữa rồi hoạt động huấn luyện chuẩn nhận phi công tàu sân bay ngoài khơi bờ biển phía Nam California. Nó lên đường vào ngày 1 tháng 5 để gia nhập Đội đặc nhiệm 52.11, Đội tàu sân bay hỗ trợ 2 dưới quyền Chuẩn đô đốc Harold B. Sallada, được tập trung tại khu vực quần đảo Marshall cho cuộc tấn công đổ bộ lên quần đảo Mariana.

Gambier Bay đã hỗ trợ gần mặt đất cho cuộc đổ bộ ban đầu của lực lượng Thủy quân Lục chiến lên Saipan vào ngày 15 tháng 6, phá hủy các vị trí đặt pháo, tập trung quân, xe tăng và xe cộ đối phương. Vào ngày 17 tháng 6, máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không của nó đã bắn rơi hay đẩy lui hầu hết một lực lượng 47 máy bay đối phương tấn công vào đội hình đội đặc nhiệm của nó, và bản thân các pháo thủ phòng không trên tàu đã bắn rơi hai trong số ba máy bay đối phương lọt qua được hàng rào phòng thủ. Sang ngày hôm sau, tiếp tục có cảnh báo về một đợt không kích khác của đối phương, tám máy bay thuộc Liên đội Hỗn hợp 10 (VC-10) đã cất cánh để hỗ trợ đẩy lui cuộc không kích; họ được trợ giúp bởi màn hỏa lực phòng không dày đặc của toàn bộ đội đặc nhiệm.

Gambier Bay tiếp tục ở lại ngoài khơi Saipan, chống trả các cuộc không kích của đối phương, bắn phá các cứ điểm phòng thủ và hỗ trợ binh lính Thủy quân Lục chiến trên bờ. Trong thời gian đó, các tàu sân bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 58 đã thành công trong việc đánh bại cuộc phản công của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản trong Trận chiến biển Philippine, hầu như vô hiệu hóa không lực tàu sân bay đối thủ. Chiếc tàu sân bay hộ tống tiếp tục hoạt động hỗ trợ gần tại Tinian từ ngày 19 đến ngày 31 tháng 7, rồi chuyển hướng sang Guam, nơi những hoạt động tương tự được thực hiện cho đến ngày 11 tháng 8.

Gambier Bay trên đường đi.

Sau khi được nghỉ ngơi để tiếp liệu tại khu vực quần đảo Marshall, Gambier Bay đã lên đường hỗ trợ cho các cuộc tấn công, đổ bộ và chiếm đóng PeleliuAngaur, thuộc khu vực Nam nhóm quần đảo Palau từ ngày 15 đến ngày 28 tháng 9. Sau đó nó di chuyển ngang qua Hollandia (nay là Jayapura) thuộc New Guinea để đi đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty, nơi lực lượng được tập trung cho chiến dịch đổ bộ tiếp theo lên quần đảo Philippine. Được bốn tàu khu trục hộ tống bảo vệ, Gambier Bay và tàu sân bay chị em Kitkun Bay (CVE-71) đã hộ tống cho các tàu vận tải và tàu đổ bộ di chuyển an toàn đến vịnh Leyte, trước khi gia nhập Đơn vị Đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống 77.4.3 dưới quyền Chuẩn đô đốc Clifton Sprague ngoài khơi đảo Leyte vào ngày 19 tháng 9.

Đơn vị đặc nhiệm, với mã gọi tắt vô tuyến là "Taffy 3", bao gồm sáu tàu sân bay hộ tống, được một lực lượng hộ tống bảo vệ gồm ba tàu khu trục và bốn tàu khu trục hộ tống. Họ trực thuộc Đội đặc nhiệm 77.4 dưới quyền Chuẩn đô đốc Thomas L. Sprague, một lực lượng 18 tàu sân bay hộ tống được chia thành ba đơn vị ("Taffy"), mỗi đơn vị sáu tàu sân bay, với nhiệm vụ duy trì ưu thế trên không bên trên vịnh Leyte và phía Đông Leyte. Trong quá trình tấn công, máy bay của họ đã phá hủy sân bay, các đoàn tàu tiếp liệu và điểm tập trung quân đối phương, hỗ trợ trên không cho lực lượng tấn công, và tuần tra chiến đấu trên không bảo vệ tàu bè đổ bộ trong vịnh Leyte. Trong khi "Taffy 1" và "Taffy 2" lần lượt đảm trách khu vực phía Bắc Mindanao và ngoài khơi lối ra vào vịnh Leyte, "Taffy 3" di chuyển ngoài khơi Samar.

Trong khi đó, Hạm đội Liên hợp Nhật Bản tung ra cuộc phản công để chống lại hạm đội Hoa Kỳ, trong một nỗ lực vô vọng nhằm tiêu diệt tàu bè đổ bộ Hoa Kỳ tập trung trong vịnh Leyte, và qua đó ngăn được cuộc đổ bộ lên Philippines. Lực lượng gần như toàn bộ tàu chiến còn lại của họ, bao gồm tàu sân bay, thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục, được chia thành ba mũi gọng kìm ở phía Bắc, Trung tâm và phía Nam. Trong Trận chiến eo biển Surigao, Lực lượng phía Nam Nhật Bản bị những thiết giáp hạm cũ và tàu tuần dương của Đội đặc nhiệm 77.2 dưới quyền Chuẩn đô đốc Jesse Oldendorf tiêu diệt trước bình minh ngày 25 tháng 10, khi chúng tìm cách băng qua eo biển Surigao để xâm nhập vịnh Leyte. Đang khi băng qua biển Sibuyan trên đường tiến đến eo biển San Bernardino trong ngày 24 tháng 10, Lực lượng Trung tâm Nhật Bản chịu đựng nhiều cuộc không kích của máy bay cất cánh từ tàu sân bay thuộc Đệ Tam hạm đội dưới quyền Đô đốc William Halsey, bị mất thiết giáp hạm khổng lồ Musashi. Sau Trận chiến biển Sibuyan, Đô đốc Halsey không còn coi Lực lượng Trung tâm Nhật Bản là một mối đe dọa đáng kể, nên ông tung toàn bộ lực lượng của mình, gồm các tàu sân bay nhanh và thiết giáp hạm mạnh nhất, lên phía Bắc để đuổi theo Lực lượng phía Bắc Nhật Bản trong Trận chiến mũi Engaño. Thực ra, Lực lượng phía Bắc Nhật Bản chỉ đóng vai trò mồi nhữ, vì chúng chỉ là những tàu sân bay còn lại rất ít máy bay.

Trận chiến ngoài khơi Samar

Gambier Bay chịu đựng hải pháo đối phương trong Trận chiến ngoài khơi Samar. Góc trên bên phải là một tàu tuần dương hạng nặng Nhật Bản, có thể là chiếc Chikuma.
Gambier Bay đang hứng chịu hỏa lực với những phát đạn pháo vây quanh. Con tàu trong vòng tròn là một thiết giáp hạm Nhật Bản, có thể là Yamato.

Việc các tàu sân bay của Halsy rời đi lên phía Bắc khiến chỉ còn các tàu sân bay hộ tống của là lực lượng duy nhất bảo vệ khu vực xung quanh Samar. Các chỉ huy Hoa Kỳ đã không nhận thức việc di chuyển vào ban đêm của Lực lượng Trung tâm Nhật Bản đang hướng đến Samar. Tuy nhiên, không lâu sau bình minh ngày 25 tháng 10, một khoảng trống qua làn sương mù buổi sáng đã bộc lộ kiểu dáng tháp chùa đặc trưng của các thiết giáp hạm và tàu tuần dương đối phương trên đường chân trời phía Bắc. Lực lượng Trung tâm còn rất nguy hiểm với bốn thiết giáp hạm, sáu tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục, đã băng qua eo biển San Bernardino mà không bị phát hiện và đang đi dọc theo bờ biển phủ sương mù của Samar để tiến đến vịnh Leyte.

"Taffy 3" bị áp đảo về ưu thế hỏa lực so với Lực lượng Trung tâm, nhưng sự hiện hiện diện của lực lượng đối phương vịnh Leyte là điều không thể chấp nhận, nên "Taffy 3" xoay ra đối đầu với đối thủ. Chuẩn đô đốc Thomas L. Sprague lập tức kêu gọi mọi sự trợ giúp có thể từ các đơn vị bạn, trong khi các tàu sân bay của nó rút chạy về phía Đông và phóng hết số máy bay của chúng. Máy bay tấn công đội hình đối phương bằng ngư lôi, bom và súng máy cho đến khi hết đạn, rồi tiếp tục tấn công giả mà không có vũ khí, nhằm phá vỡ đội hình đối phương nhằm trì hoãn việc tấn công. Các tàu khu trục và tàu khu trục hộ tống thả những màn khói ngụy trang nhằm che khuất những mục tiêu khỏi sự quan sát đối phương; họ ra vào màn khói để tấn công các tàu chiến Nhật Bản ở tầm bắn trực tiếp rồi lại ẩn nấp và tiếp tụ thả khói. Bất chấp những nỗ lực này, Gambier Bay bị bắn trúng nhiều phát từ các tàu đối phương. Khẩu pháo 5 in (130 mm) duy nhất của nó phản công vào một tàu tuần dương đang nổ súng vào nó, và các tàu khu trục Heermann (DD-532)Johnston (DD-557) cũng nỗ lực vô vọng nhằm cứu nó.

Khoảng 08 giờ 20 phút, Gambier Bay bị hư hại nặng bởi một quả đạn pháo 8 in (200 mm) từ tàu tuần dương hạng nặng Chikuma, làm ngập nước phòng động cơ phía trước và khiến tốc độ bị giảm chỉ còn một nữa.[1] Nó nhanh chóng chết đứng giữa biển trong khi thiết giáp hạm Yamato tiến đến ở tầm bắn trực tiếp; Yamato được thấy rõ trong các tấm ảnh được chụp khi "Taffy 3" bị tấn công.[2] Chiếc tàu sân bay bốc cháy suốt từ mũi đến đuôi, lật úp lúc 09 giờ 07 phút và đắm lúc 09 giờ 11 phút. Vị trí đắm của nó ở tọa độ xấp xỉ 11°46′B 126°09′Đ / 11,767°B 126,15°Đ / 11.767; 126.150. Hầu hết trong số gần 800 người sống sót của nó được vớt hai ngày sau đó bởi các tàu đổ bộ và xuồng tuần tra được phái đến từ vịnh Leyte; cá mập đã giết chết một số người. Hoel (DD-533), Samuel B. Roberts (DE-413)Johnston cũng bị mất trong trận này. Gambier Bay là tàu sân bay duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ bị đánh chìm bởi hải pháo trong Thế Chiến II.[3]

Phần thưởng

Gambier Bay được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Tham khảo

  1. ^ Cox, Robert Jon. “USS Gambier Bay (CVE 73)”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2011.
  2. ^ Polmar, Norman (2006). Aircraft Carriers: A History of Carrier Aviation and Its Influence on World Events: 1909-1945. Potomac Books, p. 434. ISBN 1-57488-663-0
  3. ^ Rhea, Milton A. (2004). WW2 - War Is Hell. Trafford Publishing. tr. 209. ISBN 1412017165.

Đọc thêm

Liên kết ngoài

Read other articles:

У Вікіпедії є статті про інших людей із прізвищем Гулак-Артемовський. Петро Петрович Гулак-Артемовський Народився 16 (27) січня 1790[1]Городище, нині Черкаська область, УкраїнаПомер 1 (13) жовтня 1865(1865-10-13)ХарківПоховання Перше міське кладовище (нині Молодіжний парк) в Харко...

 

Cet article est une ébauche concernant la géographie et la Pologne. Vous pouvez partager vos connaissances en l’améliorant (comment ?) selon les recommandations des projets correspondants. Pour les articles homonymes, voir Tarnobrzeg (homonymie). Powiat de Tarnobrzeg Powiat tarnobrzeski Héraldique Drapeau Administration Pays Pologne Voïvodie Basses-Carpates Capitale Tarnobrzeg Starosta Krzysztof Pitra Plaque d'immatriculation RTA Démographie Population 54 256 hab. (2012...

 

Prof. Yosef Garfinkel Yosef Garfinkel (bahasa ibrani: יוסף גרפינקל; lahir 1956) adalah seorang profesor Arkeologi Prasejarah dan Arkeologi Periode Alkitab di Universitas Ibrani Yerusalem.[1] Biografi Yosef (Yossi) Garfinkel lahir pada tahun 1956 di Haifa, Israel. Dia adalah seorang kurator museum Yarmukian Culture di Kibbutz Sha'ar HaGolan. Garfinkel memiliki spesialisasi dalam era Protohistoris Timur Dekat, periode ketika  masyarakat desa tertua di dunia mykai di...

American college football season 1909 Michigan Wolverines footballConferenceIndependentRecord6–1Head coachFielding H. Yost (9th season)CaptainDave AllerdiceHome stadiumFerry FieldSeasons← 19081910 → 1909 Midwestern college football independents records vte Conf Overall Team W   L   T W   L   T Iowa State Normal   –   6 – 0 – 0 Notre Dame   –   7 – 0 – 1 Michigan Agricultural   &#...

 

蝙蝠侠Batman基本资料导演蒂姆·伯顿监制彼得·古柏(英语:Peter Guber)喬恩·彼得斯(英语:Jon Peters)编剧山姆·哈姆(英语:Sam Hamm)鲍勃·凯恩故事山姆·哈姆原著《蝙蝠俠》鮑勃·凱恩比爾·芬格作品主演麥可·基顿金·貝辛格傑克·尼科爾森羅伯特·烏爾帕特·亨格爾比利·迪·威廉斯麥可·高福傑克·帕蘭斯(英语:Jack Palance)配乐丹尼·葉夫曼摄影羅傑·普拉特(英语:Roge...

 

The 1992 AFL draft is the annual draft of talented players by Australian rules football teams that participate in the main competition of that sport, the Australian Football League. It consisted of the main national draft, the pre-season draft and the trade period.[1] In 1992 there were 124 picks to be drafted between 15 teams in the main national draft. 1992 mid-season draft There was a mid-year draft held during the 1992 season. Players recruited in this draft were able to take thei...

Indian English language news channel Television channel Republic TVCountryIndiaBroadcast areaWorldwideNetworkBroadcast television and OnlineHeadquartersMumbai, Maharashtra, IndiaProgrammingLanguage(s)EnglishPicture formatSDTVOwnershipOwner Republic Media Network Arnab Goswami Jupiter Capital Key peopleArnab GoswamiSister channelsAsianet News Asianet Suvarna News Republic Bharat Republic Bangla Republic KannadaHistoryLaunched6 May 2017; 6 years ago (2017-05-06)LinksWebsitewww...

 

This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Grand Hotel Union – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (March 2008) (Learn how and when to remove this template message) 46°3′8.89″N 14°30′22.29″E / 46.0524694°N 14.5061917°E / 46.0524694; 14.5061917 The Grand Hotel ...

 

Indian music composer VidyasagarBackground informationBirth nameVidya SagarBorn (1963-03-02) 2 March 1963 (age 60)Amalapuram, Andhra Pradesh, IndiaGenresFilm score, dance music, classical musicOccupations Singer Songwriter Composer Record producer Music director Arranger Conductor InstrumentsHarmonium, Santoor, Vibraphone, Keyboard, Piano, Guitar, Vocal.Years active1989–presentMusical artist Vidyasagar (born 2 March 1963) is an Indian composer, musician and singer who works predominant...

2008 Indian filmMunna-A Love StoryMovie poster for Munna-A Love StoryDirected byN. PadhiWritten byDr. Raman RanjanProduced byK.M. RaiStarringAnubhav MohantyDushmantRomiNaina DasMihir DasEdited bySusant ManiMusic byAbhijit MajumdarDistributed byBishnupriya Arts & GraphicsRelease date 15 August 2008 (2008-08-15) CountryIndiaLanguageOdia Munna-A Love Story , is a 2008 Indian Odia action film directed by N. Padhi This movie is unofficial remake of Bollywood movie Jeet, starring...

 

Kasus anak-anak kodok (bahasa Korea: 개구리소년) adalah kasus menghilangnya 5 bocah belasan tahun di Korea Selatan pada 26 Maret 1991. Para bocah tersebut sedang mencari telur salamander (oleh media disalahtafsirkan sebagai kodok) di dekat gunung Waryong tetapi sejak saat itu kelima anak tersebut tidak pernah kembali. Jasad mereka baru ditemukan 11 tahun kemudian. Meskipun diketahui bahwa mereka dibunuh, kasus ini tak pernah terpecahkan. Peristiwa ini kemudian dijadikan subjek oleh d...

 

2012 studio album by Meisa KurokiUnlockedStudio album by Meisa KurokiReleasedFebruary 15, 2012Recorded2011Genre R&B pop J-pop Length59:53LabelGr8! RecordsMeisa Kuroki chronology Magazine(2011) Unlocked(2012) Singles from Unlocked One More DramaReleased: April 13, 2011 Wired LifeReleased: August 31, 2011 Woman's Worth / Breeze OutReleased: December 7, 2011 Unlocked is the second studio album by the Japanese singer, model and actress Meisa Kuroki. It was released on February 15, 201...

Ancient Egyptian board game MehenMehen game with game stones, from Abydos, Egypt, 3000 BC, Neues MuseumYears activedating from approximately 3000 BC and continues until the end of the Old Kingdom, around 2300 BCGenresBoard gamePlayersunknownPlaying timeunknown Mehen in hieroglyphs mḥn[1] Mehen is a board game which was played in ancient Egypt. The game was named in reference to Mehen, a snake deity in ancient Egyptian religion. History Evidence of the game of Mehen is found from the...

 

Artikel ini sebatang kara, artinya tidak ada artikel lain yang memiliki pranala balik ke halaman ini.Bantulah menambah pranala ke artikel ini dari artikel yang berhubungan atau coba peralatan pencari pranala.Tag ini diberikan pada Januari 2023. Nesozineus giesberti Klasifikasi ilmiah Kerajaan: Animalia Filum: Arthropoda Kelas: Insecta Ordo: Coleoptera Famili: Cerambycidae Genus: Nesozineus Spesies: Nesozineus giesberti Nesozineus giesberti adalah spesies kumbang tanduk panjang yang tergolong ...

 

First Lady of South Korea In this Korean name, the family name is Kim. The baptismal name is Mary. Kim Ok-sukFirst Lady of South KoreaIn role25 February 1988 – 24 February 1993PresidentRoh Tae-wooPreceded byLee Soon-jaSucceeded bySon Myung-soon Personal detailsBorn (1935-09-08) 8 September 1935 (age 88)Antoku-men, Seishō-gun, Keishōhoku-dō, Korea(now Andeok-myeon, Cheongsong County, North Gyeongsang Province, South Korea)Spouse Roh Tae-woo ​ ​(m. 19...

River in HaitiRavine RiverLocationCountryHaitiPhysical characteristicsMouth  • locationLes CayesLength34 km (21 mi) The Ravine du Sud (also known as La Ravine du Sud or the Ravine River) is a river of Haiti.[1][2] The river flows through the Pic Macaya National Park. See also List of rivers of Haiti References ^ Republic of haiti (HT): Ravine du sud ^ Proceedings of the American Society of Civil Engineers, Volume 41. 1915. p. 2093. Retr...

 

Gaelic games competition in Ireland 2022 Walsh CupTournament detailsProvinceLeinster, Ulster, ConnachtYear2022SponsorBord na MónaDate9–29 January 2022Teams7Defending championsWexfordWinnersChampionsDublin (8th win)ManagerMattie KennyCaptainEoghan O'DonnellRunners-upRunners-upWexfordManagerDarragh EganOtherMatches played10← 20202023 → The 2022 Walsh Cup was the early-season tier 1 inter-county hurling competition based in the Irish province of Leinster.[1] Seve...

 

Human settlement in EnglandBoxfordSt. Mary's Church, BoxfordBoxfordLocation within SuffolkArea0.5143 km2 (0.1986 sq mi)Population833 (2021)• Density1,620/km2 (4,200/sq mi)DistrictBaberghShire countySuffolkRegionEastCountryEnglandSovereign stateUnited KingdomPost townSudburyPostcode districtCO10Dialling code01787 21PoliceSuffolkFireSuffolkAmbulanceEast of England UK ParliamentSouth SuffolkWebsitewww.boxfordsuffolk.com List of places UK ...

Ciénega de Puerto Alegre Osnovni podaci Država  Meksiko Savezna država Guerrero Opština San Miguel Totolapan Stanovništvo Stanovništvo (2014.) 332[1] Geografija Koordinate 17°39′13″N 100°14′53″W / 17.65372°N 100.24795°W / 17.65372; -100.24795 Vremenska zona UTC-6, leti UTC-5 Nadmorska visina 1351[1] m Ciénega de Puerto AlegreCiénega de Puerto Alegre na karti Meksika Ciénega de Puerto Alegre je naselje u Meksiku, u saveznoj dr...

 

Ini adalah nama Maluku, (Ambon) marganya adalah Latul Yopie LatulLahirYopie Latul(1955-09-07)7 September 1955Ambon, Maluku, IndonesiaMeninggal9 September 2020(2020-09-09) (umur 65)Cibinong, Bogor, Jawa Barat, IndonesiaPekerjaanPenyanyiSuami/istriEmma TahapariKarier musikGenre Dansa Hip Hop Musik house Pop etnik Funk/soul Tahun aktif1982–2020Label JK Records Pelita Utama Akurama Records HP Records Yopie Latul (7 September 1955 – 9 September 2020) adalah seorang penyanyi ...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!