Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003 là đạo luật mang ký hiệu số 15/2003/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2004, quy định về thi đua và khen thưởng tại Việt Nam, cụ thể là quy định về đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, hình thức, tiêu chuẩn, thẩm quyền và trình tự, thủ tục thi đua, khen thưởng.[1]
Công tác thi đua, khen thưởng đã được nhà nước Việt Nam chú trọng từ lâu, ngày 11 tháng 6 năm 1948, Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi chính thức phát động cuộc vận động thi đua ái quốc. Trước đó ông đã ký Sắc lệnh số 195 thành lập Ban Vận động thi đua ái quốc Trung ương. Phong trào thi đua ái quốc (sau gọi là thi đua yêu nước) diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở Việt Nam với tư tưởng của Hồ Chí Minh là:
Trên cơ sở đó, nhiều quy định của pháp luật về thi đua, yêu nước được ban hành.
Luật thi đua, khen thưởng có 103 điều, được chia thành 8 Chương, 9 mục, cụ thể:[1]
Luật thi đua, khen thưởng quy định về một số vấn đề chính sau:[1]
Theo Điều 6 của Luật này thì công tác thi đua phải được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, tự giác, công khai, đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển. Công tác khen thưởng phải chính xác, công khai, công bằng, kịp thời; bảo đảm thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng; kết hợp chặt chẽ động viên tinh thần với khuyến khích bằng lợi ích vật chất, một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng.[1]
Danh hiệu thi đua bao gồm: Danh hiệu thi đua đối với cá nhân và danh hiệu thi đua đối vớt tập thể Danh hiệu thi đua đối với cá nhân gồm:[1]
Danh hiệu thi đua đối với tập thể gồm:[1]
Huân chương ở Việt Nam hiện nay dùng để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có công trạng, lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Hiện nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang thực hiện khen thưởng 18 loại huân chương. Nhưng Luật thi đua, khen thưởng chỉ quy định 10 loại gồm:[1]
Trong 10 loại huân chương này có bảy loại Huân chương đã có trước đây, đó là:
Luật thi đua, khen thưởng không quy định lại 11 loại Huân chương vì những Huân chương này dùng để tưởng thưởng cho chiến sĩ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, nay thời bình nên không còn. Cụ thể là:
Luật Thi đua, Khen thưởng đã bổ sung thêm ba loại Huân chương mới là:
Luật Thi đua, Khen thưởng chỉ quy định có bốn loại Huy chương, đó là:[1]
Luật không quy định lại 11 loại Huy chương trước đây như:
Hình thức các loại, hạng huy chương được phân biệt bằng màu sắc, số vạch trên dải và cuống huy chương.
Gồm 08 danh hiệu cụ thể là:[1]
Điều 69 của Luật đã quy định: Kỷ niệm chương để tặng cho cá nhân có đóng góp vào quá trình phát triển của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội. Tên Kỷ niệm chương, đối tượng và tiêu chuẩn tặng Kỷ niệm chương,do bộ, ban, ngành, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội quy định. Kỷ niệm chương phải được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở Trung ương[1].
Huy hiệu để tặng cho cá nhân có đóng góp vào quá trình phát triển của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Tên Huy hiệu, đối tượng và tiêu chuẩn tặng Huy hiệu do bộ, ban, ngành, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội quy định. Huy hiệu phải được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở Trung ương[1].
Bằng khen để tặng cho cá nhân, tập thể lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất. Bằng khen gồm:[1]
Giấy khen để tặng cho cá nhân, tập thể lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất. Giấy khen gồm:[1]