Lớp Edsall còn được gọi là kiểu FMR do được trang bị động cơ dieselFairbanks-Morse dẫn động qua hộp số giảm tốc đến trục chân vịt, vốn là kiểu động cơ được áp dụng rộng rãi trên tàu ngầm. Ngoại trừ đặc tính về động cơ, lớp Edsall hầu như tương tự với lớp Cannon (DET) dẫn trước.[1]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[2][3] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 201 thủy thủ.[2]
Edsall là lớp tàu hộ tống khu trục cuối cùng trang bị pháo chính cỡ 3-inch, vì các lớp Rudderow và John C. Butler tiếp theo được nâng cấp lên pháo pháo 5 in (130 mm)/38 cal. Vào giai đoạn Thế chiến II sắp chấm dứt, đã có ý định thay thế pháo 3-inch bằng pháo 5-inch, nhưng chỉ có chiếc Camp (DE-251) được tái trang bị, khi nó được sửa chữa sau một tai nạn va chạm.
Sau chiến tranh, nhiều chiếc thuộc lớp Edsall được cải biến sang tàu khu trục cột mốc radar tầm xa (mang ký hiệu lườn DER). Những chiếc này có thời gian phục vụ kéo dài cho đến tận cuối thập niên 1960.[1]
Nhập biên chế cùng Tuần duyên Hoa Kỳ như là chiếc USCGC Falgout (WDE-424) 24 tháng 8, 1951. Xuất biên chế và hoàn trả cho Hải quân 21 tháng 5, 1954. Xếp lại lớp DER-324 28 tháng 10, 1954. Xóa đăng bạ 1 tháng 6, 1975, bị đánh chìm như mục tiêu ngoài khơi California 12 tháng 1, 1977
Nhập biên chế cùng Tuần duyên Hoa Kỳ như là chiếc USCGC Ramsden (WDE-482) 1 tháng 4, 1952. Xuất biên chế và hoàn trả cho Hải quân 28 tháng 6, 1954. Xếp lại lớp DER-382 1 tháng 11, 1956. Xóa đăng bạ 1 tháng 8, 1974, và bị đánh chìm như mục tiêu sau đó
Nhập biên chế cùng Tuần duyên Hoa Kỳ như là chiếc USCGC Richey (WDE-485) on 1 tháng 4, 1952. Xuất biên chế và hoàn trả cho Hải quân 28 tháng 6, 1954. Xóa đăng bạ 30 tháng 6, 1968, bị đánh chìm như mục tiêu ngoài khơi California tháng 7, 1969
Nhập biên chế cùng Tuần duyên Hoa Kỳ như là chiếc USCGC Vance (WDE-487) 9 tháng 5, 1952. Xuất biên chế và hoàn trả cho Hải quân 16 tháng 6, 1954. Xếp lại lớp DER-387 21 tháng 10, 1955. Xóa đăng bạ 1 tháng 6, 1975, bị đánh chìm như mục tiêu 1985
^ abcRivet, Eric; Stenzel, Michael (22 tháng 4 năm 2011). “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2022.