USS Puffer (SS-268)

Tàu ngầm USS Puffer (SS-268) ngoài khơi Xưởng hải quân Mare Island, California, ngày 10 tháng 11 năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Puffer
Đặt tên theo cá nóc[1]
Xưởng đóng tàu Manitowoc Shipbuilding Company, Manitowoc, Wisconsin[2]
Đặt lườn 16 tháng 2, 1942 [2]
Hạ thủy 21 tháng 11, 1942 [2]
Người đỡ đầu bà Ruth B. Lyons
Nhập biên chế 27 tháng 4, 1943 [2]
Xuất biên chế 28 tháng 6, 1946 [2]
Xóa đăng bạ 1 tháng 7, 1960 [2]
Danh hiệu và phong tặng
Số phận Bán để tháo dỡ, 3 tháng 12, 1960 [2]
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.525 tấn Anh (1.549 t) (mặt nước) [3]
  • 2.424 tấn Anh (2.463 t) (lặn)[3]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [3]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [3]
Mớn nước 17 ft (5,2 m) tối đa [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[6]
  • 75 ngày (tuần tra)
Độ sâu thử nghiệm 300 ft (90 m)[6]
Thủy thủ đoàn tối đa 6 sĩ quan, 54 thủy thủ[6]
Vũ khí

USS Puffer (SS-268) là một tàu ngầm lớp Gato từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên các loài trong họ Cá nóc.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, thực hiện tổng cộng chín chuyến tuần tra, đánh chìm tám tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu frigate, với tổng tải trọng 36.392 tấn.[7] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, con tàu tiếp tục phục vụ như tàu huấn luyện trong thành phần dự bị cho đến khi bị bán để tháo dỡ vào năm 1960. Puffer được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Lớp tàu ngầm Gato được thiết kế cho mục đích một tàu ngầm hạm đội nhằm có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[8] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.525 tấn Anh (1.549 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 21 hải lý trên giờ (39 km/h) và 9 hải lý trên giờ (17 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày[6] và lặn được sâu tối đa 300 ft (90 m).[6]

Lớp tàu ngầm Gato được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 3 inch/50 caliber, và thường được tăng cường một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo súng máy .50 caliber.30 caliber.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[9][10]

Puffer được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Manitowoc Shipbuilding CompanyManitowoc, Wisconsin vào ngày 16 tháng 2, 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 11, 1942, được đỡ đầu bởi bà Ruth B. Lyons, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 4, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Marvin John Jensen.[1][11][12]

Lịch sử hoạt động

1943

Vào đầu tháng 5, 1943, Puffer được chất lên một sà lan để được kéo dọc theo sông Mississippi từ Manitowoc đến New Orleans, Louisiana, nơi nó được tiếp tục trang bị hoàn thiện trước đưa đi vào hoạt động. Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại khu vực vịnh Mexico, chiếc tàu ngầm chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó băng qua kênh đào Panama và đi đến Brisbane, Australia vào đầu tháng 9, 1943.[1]

Chuyến tuần tra thứ nhất

Trong chuyến tuần tra đầu tiên từ ngày 7 tháng 9 đến ngày 17 tháng 10 tại các khu vực eo biển Makassarbiển Celebes, Puffer đã gây hư hại cho nhiều tàu đối phương, nhưng không đánh chìm được chiếc nào. Vào ngày 9 tháng 10, sau khi phóng ngư lôi gây hư hại cho chiếc tàu buôn Kumagawa Maru,[13] chiếc tàu ngầm phải chịu đựng một đợt phản công kéo dài 38 giờ bởi mìn sâu thả từ hai tàu săn ngầm đối phương, và bị hư hại nhẹ.[1]

Chuyến tuần tra thứ hai

Khởi hành vào ngày 24 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ hai tại vùng biển Sulu và các lối tiếp cận Manila, vào ngày 13 tháng 12, Puffer đã phóng ngư lôi gây hư hại cho chiếc Teiko Maru (nguyên là chiếc tàu hơi nước D'Artagnan của phe Vichy Pháp).[14] Đến ngày 20 tháng 12, nó tấn công đánh chìm chiếc tàu khu trụcFuyō (820 tấn); rồi đến ngày 1 tháng 1, 1944 lại tiếp tục đánh chìm chiếc tàu chở hàng Ryuyo Maru (6.707 tấn) trước khi quay trở về Fremantle, Australia để tái trang bị vào ngày 12 tháng 1.[1]

1944

Chuyến tuần tra thứ ba và thứ tư

Lên đường vào ngày 4 tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ ba tại khu vực biển Đông, vào ngày 22 tháng 2, Puffer đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu vận tải Teikyo Maru (15.105 tấn), rồi kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Fremantle vào ngày 4 tháng 4 để tái trang bị. Nó tiếp tục lên đường vào ngày 30 tháng 4 cho chuyến tuần tra tiếp theo tại các khu vực eo biển Madura, eo biển Makassar và biển Sulu. Chiếc tàu ngầm thoạt tiên hoạt động tìm kiếm và giải cứu phục vụ cho chiến dịch không kích xuống Surabaya trên đảo Java, rồi đến ngày 18 tháng 5 đã đánh chìm tàu chở hàng Shinryu Maru (3.181 tấn). Đến ngày 5 tháng 6, nó lại tấn công một đoàn ba tàu chở dầu, đánh chìm được các chiếc Ashizuri (2.166 tấn) và Takasaki (2.500 tấn). Thành tích xuất sắc trong chuyến tuần tra này đã giúp Puffer được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân. Nó quay trở về Fremantle vào ngày 21 tháng 6.[1]

Chuyến tuần tra thứ năm

Trong chuyến tuần tra thứ năm từ ngày 14 tháng 7 tại các khu vực eo biển Makassar, biển Celebes, biển Sulu và biển Đông, Puffer phát hiện một tàu tiếp liệu tàu ngầm được năm tàu hộ tống bảo vệ vào ngày 21 tháng 7; tuy nhiên cuộc theo đuổi trong ba ngày đã không đem đến kết quả. Đến ngày 12 tháng 8, nó đụng độ một đoàn mười tàu buôn được hộ tống, và tấn công với toàn bộ chín quả ngư lôi còn lại, đánh chìm được tàu chở dầu Teikon Maru (5.113 tấn) đồng thời gây hư hại cho ít nhất hai chiếc khác. Nó hoàn tất chuyến tuần tra khi quay trở về Trân Châu Cảng, rồi tiếp tục đi đến vùng bờ Tây để được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island. Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, nó quay trở lại khu vực quần đảo Hawaii để hoạt động huấn luyện.[1]

1945

Chuyến tuần tra thứ sáu và thứ bảy

Puffer lên đường vào ngày 16 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ sáu tại vùng biển quần đảo Ryūkyū. Nó đã đánh chìm Tàu Phòng vệ Duyên hải số 42 (khoảng 800 tấn), nguyên là một tàu frigate, vào ngày 10 tháng 1, 1945. Sau đó nó tiếp tục gây hư hại cho một tàu khu trục, ba tàu chở hàng và một tàu chở dầu trước khi quay trở về Guam vào ngày 17 tháng 1 để tái trang bị. Chiếc tàu ngầm tiếp tục lên đường vào ngày 11 tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ bảy tại eo biển Luzon và khu vực biển Đông, nơi nó bắn phá quần đảo Đông Sa, và trên đường quay trở về căn cứ Midway đã càn quét tàu bè đối phương tại vùng biển chung quanh đảo Wake. [1]

Chuyến tuần tra thứ tám và thứ chín

Sau khi được tái trang bị tại Midway, Puffer khởi hành vào ngày 20 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ tám tại khu vực biển Đông và biển Java. Tại bờ biển phía Bắc Bali, Đông Ấn thuộc Hà Lan, nó đã phá hủy hai tàu vận tải nhỏ và sáu tàu đổ bộ bằng hải pháo vào ngày 5 tháng 7, và bắn phá các cơ sở cảng tại Chelukan BawangBuleleng, Bali. Sau khi quay trở về Fremantle để được tiếp liệu, nó tiếp tục thực hiện chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, trong biển Java, cho đến khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột. Nó đi đến vịnh Subic, Philippines trước khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ, về đến San Francisco, California vào ngày 15 tháng 10.[1]

Puffer được cho xuất biên chế vào ngày 28 tháng 6, 1946,[1][11][12] và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, neo đậu tại Xưởng hải quân Mare Island. Sau đó con tàu được chuyển đến Seattle, Washington để phục vụ cùng Quân khu Hải quân 13 như một tàu huấn luyện dành cho nhân sự thuộc Hải quân Dự bị Hoa Kỳ, cho đến khi được thay thế bởi tàu ngầm USS Bowfin (SS-287) vào ngày 10 tháng 6, 1960.[1][11] Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 7, 1960,[11][12] và con tàu bị bán cho hãng Zidell Corporation tại Portland, Oregon để tháo dỡ vào ngày 4 tháng 11, 1960.[1][11][12]

Phần thưởng

Puffer được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][11] Nó được ghi công đã đánh chìm tám tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu frigate, với tổng tải trọng 36.392 tấn.[7]

Silver star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Đơn vị Tuyên Dương Hải quân Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 9 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Naval Historical Center. Puffer I (SS-268). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d e f g h Bauer & Roberts 1991, tr. 271-273
  4. ^ a b c d e Bauer & Roberts 1991, tr. 270-280
  5. ^ a b Friedman 1995, tr. 261
  6. ^ a b c d e f g h i j k l m Friedman 1995, tr. 305–311
  7. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2022.
  8. ^ Friedman 1995, tr. 99–104
  9. ^ Alden 1979, tr. 48, 97
  10. ^ Blair 2001, tr. 65
  11. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. “USS Puffer (SS-268)”. NavSource.org. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2022.
  12. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “USS Puffer (SS-268)”. uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2022.
  13. ^ Hackett, Bob; Cundall, Peter; Casse, Gilbert (2012). “IJN Kumagawa Maru: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
  14. ^ Cressman, Robert (2000). “Chapter V: 1943”. The official chronology of the U.S. Navy in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1-55750-149-3. OCLC 41977179. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2007.

Thư mục

Liên kết ngoài


Read other articles:

Politics of Bolivia Constitution History Human rights Executive President (list) Luis Arce Vice President David Choquehuanca Cabinet of Bolivia Legislative Plurinational Legislative Assembly Chamber of Senators President of the Senate Chamber of Deputies President of the Chamber of Deputies Judiciary Supreme Tribunal of Justice Constitutional Tribunal Supreme Court (1825–2012) Elections Plurinational Electoral Organ Political parties Recent elections 2021 (regional) 2020 (general) 2019 (gen...

 

Two Prudential PlazaTwo Prudential Plaza (kanan) dan One Prudential Plaza (kiri)Informasi umumStatusSelesai dibangunJenisCampuranLokasi180 N. Stetson Av.Chicago, IllinoisAmerika SerikatMulai dibangun1988Rampung1990TinggiArsitektural995 ft (303 m)[1]Data teknisJumlah lantai64[1]Luas lantai1.400.000 sq ft (130.000 m2)[1]Desain dan konstruksiArsitekLoebl, Schlossman & HacklStephen T. WrightTeknisi strukturCBM Engineers Inc.Kontraktor utamaTurn...

 

West Mediterranean sauce of garlic and oil For the 19th-century Occitan newspaper, see L'Aiòli. AioliTypeSaucePlace of originEastern Spain, Southern France, Southern Italy, MaltaMain ingredientsOlive oil, garlic Cookbook: Aioli  Media: Aioli Aioli, allioli or aïoli (/aɪˈoʊli/ or /eɪˈoʊli/; Provençal Occitan: alhòli [aˈʎɔli] or aiòli [aˈjɔli]; Catalan: allioli [ˌaʎiˈɔli]; Spanish: alioli [ˌaliˈoli]) is a cold sauce consisting of an...

バスケットボールコーチの木村功とは異なります。 きむら いさお木村 功 1954年生年月日 (1923-06-22) 1923年6月22日没年月日 (1981-07-04) 1981年7月4日(58歳没)出生地 日本・広島県広島市千田町(現:中区千田町)身長 175 cm職業 俳優ジャンル テレビドラマ、映画活動期間 1946年 - 1981年配偶者 木村梢主な作品 『野良犬』、『生きる』『七人の侍』、『天国と地獄』テンプレート

 

Natnael TesfatsionDatos personalesNombre completo Natnael Tesfatsion OcbitNacimiento Asmara, Eritrea23 de mayo de 1999 (24 años)Carrera deportivaRepresentante de Eritrea EritreaDeporte CiclismoDisciplina RutaEquipo Lidl-TrekTrayectoria Equipos amateur 2018 Eritel Equipos profesionales 2019-20202021-20222023- Dimension Data/NTT ContinentalAndroni GiocattoliTrek [editar datos en Wikidata] Natnael Tesfatsion Ocbit (Asmara, 23 de mayo de 1999) es un ciclista eritreo, mie...

 

У Вікіпедії є статті про інші значення цього терміна: 44-та бригада. 44-та окрема артилерійська бригада Нарукавний знак бригадиЗасновано 9 вересня 2014Країна  УкраїнаВид Сухопутні військаТип  Ракетні війська та артилеріяУ складі ОК «Захід»Базування  Тернопіль...

Resolusi 582Dewan Keamanan PBBPara tahanan perang Irak di IranTanggal24 Februari 1986Sidang no.2.666KodeS/RES/582 (Dokumen)TopikIran–IrakRingkasan hasil15 mendukungTidak ada menentangTidak ada abstainHasilDiadopsiKomposisi Dewan KeamananAnggota tetap Tiongkok Prancis Britania Raya Amerika Serikat Uni SovietAnggota tidak tetap Australia Bulgaria Rep. Kongo Denmark Ghana Madagaskar Thailand Trinidad UEA Venez...

 

Battle of Rio de JaneiroPart of France AntarctiqueMap of France Antarctique in the Guanabara Bay, 1555.Date20 January 1567LocationRio de Janeiro, BrazilResult Portuguese victoryBelligerents Portuguese Empire  FranceTamoyo alliesCommanders and leaders Estácio de Sá (DOW) UnknownStrength Unknown UnknownCasualties and losses Unknown UnknownvteFrance Antarctique:Brazil 1st Rio de Janeiro 2nd Rio de Janeiro Maranhão vtePortuguese colonial campaigns 15th century Morocco (1415) Morocco ...

 

هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (مارس 2023) حسن أعريوتي معلومات شخصية الاسم الكامل حسن علي أعريوتي الميلاد 5 فبراير 1994 (العمر 29 سنة)القطيف / السعودية مركز اللعب لاعب وسط معلومات النادي النادي الحالي نادي...

This article relies excessively on references to primary sources. Please improve this article by adding secondary or tertiary sources. Find sources: Indian Journal of Gastroenterology – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (January 2015) (Learn how and when to remove this template message) Academic journalIndian Journal of GastroenterologyDisciplineGastroenterologyLanguageEnglishEdited byUday C Ghoshal [1]Publication detailsHistory1...

 

Serie A1 2023/2024Serie A1 Superlega Credem Banca 2022/2023 2024/2025 Szczegóły Państwo  Włochy Organizator Lega Pallavolo Serie A maschile Poziom ligowy najwyższy Edycja LXXVIII Liczba zespołów 12 Termin 22.10.2023 – 2024 Liczba kolejek 22 Liczba obiektów sportowych 12 (w 12 miejscowościach) Serie A1 siatkarzy 2023/2024 – 79. sezon walki o mistrzostwo Włoch organizowany przez Lega Pallavolo Serie A pod egidą Włoskiego Związku Piłki Siatkowej (wł. Federazione Italiana ...

 

For other uses, see Jane Eyre (disambiguation). Jane EyreOriginal Cast RecordingMusicPaul GordonLyricsPaul GordonBookJohn CairdBasisJane Eyre by Charlotte BrontëProductions1995 Wichita, Kansas 1995 Toronto 1999 San Diego 2000 Broadway 2009 Tokyo 2012 Tokyo 2023 Tokyo 2023 Brno Jane Eyre is a musical drama with music and lyrics by composer-lyricist Paul Gordon and a book by John Caird, based on the 1847 novel by Charlotte Brontë. The musical premiered on Broadway in 2000. Production history ...

Fictional character from the BBC soap opera EastEnders Soap opera character Matthew RoseEastEnders characterPortrayed byJoe AbsolomDuration1997–2000First appearanceEpisode 149426 August 1997 (1997-08-26)Last appearanceEpisode 19033 February 2000 (2000-02-03)ClassificationFormer; regularSpin-offappearancesPudding Lane (1999)In-universe informationOccupationMarket trader DJFatherMichael RoseMotherSusan RoseGrandmothersMrs RoseUnclesColin RoseBrian ...

 

American magician This article is about the magician. For the pro baseball player, see Matt Franco. Mat FrancoFranco in 2015Born (1988-05-10) May 10, 1988 (age 35)Johnston, Rhode Island, U.S.Alma materUniversity of Rhode IslandOccupationMagicianYears active2003–presentKnown forAmerica's Got Talent Season 9 winner Mat Franco’s Got Magic NBC TV Specials Las Vegas Headliner at The LINQWebsitematfranco.com Mat Franco (born May 10, 1988) is an American magician best known f...

 

Zoe KazanKazan di acara pemutaran film The F Word tahun 2014LahirZoe Swicord Kazan9 September 1983 (umur 40)Los Angeles, California, Amerika SerikatPendidikanBachelor of ArtsAlmamaterUniversitas YalePekerjaanAktris, pemain teaterTahun aktif2003–sekarangPasanganPaul Dano (2007–sekarang)Orang tuaRobin SwicordNicholas KazanKerabatMaya Kazan (saudara)Elia Kazan (kakek dari ayah)Molly Kazan (nenek dari ayah) Zoe Swicord Kazan (lahir tanggal 9 September 1983[1][2][...

Republik Sosialis SovietAbkhaziaСоциалисттә Советтә Республика Аҧсныcode: ab is deprecated   (Abkhazian) საბჭოთა სოციალისტური რესპუბლიკა აფხაზეთიcode: ka is deprecated   (Georgia) Социалистическая Советская Республика Абхазияcode: ru is deprecated   (Rusia)1921–1931 Bendera Lambang Negara Semboyan: Проле...

 

Association football club in England WWFC redirects here. For other uses, see WWFC (disambiguation). Football clubWolverhampton WanderersFull nameWolverhampton Wanderers Football ClubNickname(s)Wolves, The Wanderers[1]Founded1877; 146 years ago (1877), as St. Luke's F.C.GroundMolineux StadiumCapacity31,750[2]OwnerFosun InternationalChairmanJeff Shi[3]Head coachGary O'NeilLeaguePremier League2022–23Premier League, 13th of 20WebsiteClub website Home c...

 

19th-century French noble This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Zénaïde Bonaparte – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (December 2007) (Learn how and when to remove this template message) Zénaïde BonapartePrincess of Canino and MusignanoInfanta of SpainZénaïde Bonaparte (in front) an...

South Korean rapper/producer (born 1986) GrayBackground informationBirth nameLee Seong-hwaBorn (1986-12-08) December 8, 1986 (age 36)OriginSeoul, South KoreaGenresHip hopOccupation(s)Rappersingerrecord producerYears active2012–presentLabelsAOMGWebsitewww.aomgofficial.com/grayMusical artist Lee Seong-hwa (Hangul: 이성화; born December 8, 1986),[1] better known by his stage name Gray (Hangul: 그레이; stylized as GRAY), is a South Korean rapper, singer and record producer. I...

 

Song composed by Franz Schubert For other uses, see Death and the Maiden. This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Der Tod und das Mädchen – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (August 2021) (Learn how and when to remove this template message) Franz Schubert, composer Original manuscript of D...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!