USS Bashaw (SS/SSK/AGSS-241) là một tàu ngầmlớp Gato từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá trê đầu bẹt.[1][2] Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, thực hiện tổng cộng sáu chuyến tuần tra, đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 19.269 tấn.[8] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1949, nó được huy động trở lại để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh từ năm 1951 đến năm 1969, được xếp lại lớp như "tàu tìm-diệt tàu ngầm" SSK-241, và cuối cùng như một "tàu ngầm phụ trợ" AGSS-241 trước khi bị bán để tháo dỡ vào năm 1972. Bashaw được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Lớp tàu ngầm Gato được thiết kế cho mục đích một tàu ngầm hạm đội nhằm có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[9] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.525 tấn Anh (1.549 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[4] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[4][6] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[4] cho phép đạt tốc độ tối đa 21 hải lý trên giờ (39 km/h) và 9 hải lý trên giờ (17 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày[7] và lặn được sâu tối đa 300 ft (90 m).[7]
Lớp tàu ngầm Gato được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 3 inch/50 caliber, và thường được tăng cường một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo súng máy.50 caliber và .30 caliber.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[10][11]
Từ tháng 3 đến tháng 8, 1954, Bashaw được phái sang hoạt động tại Viễn Đông và sau đó tham gia nhiều cuộc tập trận tại vùng biển quần đảo Hawaii trước khi được đại tu tại San Francisco. Từ tháng 1 đến tháng 8, 1956, chiếc tàu ngầm lại được phái sang Viễn Đông lần thứ hai, và về đến Trân Châu Cảng vào ngày 14 tháng 8.[1] Nó được xếp lại lớp và quay trở lại ký hiêu lườn cũ SS-241 vào ngày 15 tháng 8, 1959,[2] rồi trở thành một tàu ngầm phụ trợ AGSS-241 vào tháng 9, 1962.[1][2][12]
Bashaw được cho xuất biên chế lần sau cùng đồng thời rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 13 tháng 9, 1969,[1][2][12] trở thành chiếc tàu ngầm lớp Gato cuối cùng được cho xuất biên chế. Con tàu bị bán cho hãng National Metal and Steel Corp. để tháo dỡ vào ngày 4 tháng 8, 1972,[1] nhưng nguồn khác cho rằng nó bị đánh chìm như một mục tiêu vào tháng 7, 1972.[2][12][3]
Phần thưởng
Bashaw được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2] Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 19.269 tấn.[8]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.