Lớp tàu ngầm Gato được thiết kế cho mục đích một tàu ngầm hạm đội nhằm có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[9] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.525 tấn Anh (1.549 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[4] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[4][10] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[4] cho phép đạt tốc độ tối đa 21 hải lý trên giờ (39 km/h) và 9 hải lý trên giờ (17 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày[7] và lặn được sâu tối đa 300 ft (90 m).[7]
Lớp tàu ngầm Gato được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 3 inch/50 caliber, và thường được tăng cường một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo súng máy.50 caliber và .30 caliber.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[11][12]
Trong chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 6 tháng 9 đến ngày 28 tháng 10 tại khu vực biển Đông, Gurnard phát hiện một đoàn tàu vận tải lúc gần nữa đêm ngày 7 tháng 10 ở về phía Tây đảo Luzon, Philippines, tiếp cận lúc 01 giờ 39 phút sáng ngày 8 tháng 10, đánh chìm được tàu chở hàng Taian Maru (5.655 tấn) và tàu chở hành khách Dainichi Maru (5.813 tấn). Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Trân Châu Cảng.[1]
Chuyến tuần tra thứ tư
Tiến hành chuyến tuần tra thứ tư tại bờ biển Đông Nam đảo Honshū, Nhật Bản, vào ngày 24 tháng 12, Gurnard phát hiện một đoàn tàu vận tải, và đến 07 giờ 10 phút nó tấn công, đánh chìm các tàu buôn Seizan Maru No. 2 (1.898 tấn) và Tofuku Maru (5.857 tấn). Các tàu khu trục đối phương đã phản công, thả hơn 80 quả mìn sâu tấn công chiếc tàu ngầm nhưng không có kết quả. Nó còn tiếp tục gây hư hại cho một tàu buôn khác vào ngày 27 tháng 12, rồi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 1, 1944. Nó được gửi về vùng bờ Tây để đại tu.[1]
Chuyến tuần tra thứ năm
Rời Trân Châu Cảng vào ngày 16 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ năm, Gurnard hướng sang khu vực phía Đông biển Celebes, nơi nó ghi được một trong những thành tích tải trọng tàu cao nhất từ bị đánh chìm trong một chuyến tuần tra. Vào ngày 6 tháng 5, nó lần lượt đánh chìm tàu chở hàng Tenshinzan Maru (6.886 tấn), tàu chở hành khách Taijima Maru (6.995 tấn), và tàu chở hành khách Aden Maru (5.824 tấn); đoàn tàu này đang vận chuyển lực lượng 40.000 binh lính mà Nhật Bản đang gửi sang để đối đầu với lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương dưới quyền Đại tướngDouglas MacArthur, và đã bị tổn thất khoảng gần một nữa lực lượng được chuyên chở trên ba con tàu. Các tàu hộ tống phản công với khoảng 100 quả mìn sâu nhưng chiếc tàu ngầm né tránh được. Đến ngày 24 tháng 5, chiếc tàu ngầm lại tiếp tục phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở dầuTatekawa Maru (10.090 tấn). Nó quay trở về căn cứ tại Fremantle, Australia để tái trang bị vào ngày 11 tháng 6.[1]
Chuyến tuần tra thứ sáu
Trong chuyến tuần tra thứ sáu từ ngày 8 tháng 7 đến ngày 5 tháng 9 tại các vùng biển Banda, Molucca, Celebes, Sulu và Mindanao, Gurnard không tìm được mục tiêu nào phù hợp. Nó được tiếp nhiên liệu tại Darwin, Lãnh thổ Bắc Úc rồi tiếp tục tuần tra tại eo biển Peleng, gây hư hại cho một tàu buôn đối phương trước khi quay trở về Fremantle vào ngày 5 tháng 9.[1]
Chuyến tuần tra thứ bảy
Trong chuyến tuần tra thứ bảy từ ngày 9 tháng 10 đến ngày 17 tháng 11, Gurnard hoạt động ngoài khơi Borneo, và vào ngày 3 tháng 11 đã đánh chìm được tàu chở hàng Taimei Maru (6.923 tấn) sau cuộc săn đuổi kéo dài 18 giờ.[1]
Gurnard được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân cùng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2] Nó được ghi công đã đánh chìm mười tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 57.866 tấn.[8]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.