Montgomery—người đã được hệ thống tình báo Ultra báo trước về những ý định của Rommel—đã cố tình để lại một lỗ hổng ở khu vực phía nam của trận tuyến, vì biết rằng Rommel dự kiến sẽ tiến công nơi này, và triển khai chủ lực của các lực lượng thiết giáp và pháo binh của ông ta xung quanh cao điểm Alam el Halfa, 20 mi (32 km) về phía sau trận tuyến. Trong một chiến thuật mới, các cỗ xe tăng được sử dụng trong một vai trò của vũ khí chống tăng, được giữ nguyên ở các vị trí của chúng trên cao điểm và không được tiến hành phá vây để bị tiêu diệt như trong quá khứ.
Cuộc tấn công của Rommel đã giành được thắng lợi ban đầu. Tuy nhiên, do liên quân Đức - Ý bị thiếu hụt nhiên liệu[4], và do các cuộc tiến công của ông ta vào cao điểm bị bẻ gãy, Rommel ra lệnh rút quân. Montgomery không khai thác thắng lợi phòng ngự của mình, thay vì đó quyết định củng cố các lực lượng của mình để chuẩn bị cho trận El Alamein lần thứ hai. Mặc dù vậy, Sư đoànNew Zealand số 2 đã phát động một cuộc tấn công vào các vị trí phòng ngự của quân đội Ý, và cuộc tấn công này sớm bị đánh bật với thiệt hại nặng nề. Không biết về hệ thống tình báo Ultra của Anh, Rommel đã tuyên bố rằng ưu thế về không quân của Anh đóng vai trò quyết định cho thắng lợi của họ tại Alam el Halfa. Rommel nhận thấy rằng các cuộc tấn công thất bại của mình đã gây tổn thất lớn cho các lực lượng cơ giới của khối Trục và buộc ông ta phải chấm dứt chiến dịch tấn công của mình.[5]
Đối với quân đội phe Trục, cái giá của thất bại tại Alam el Halfa không chỉ là một thất bại chiến thuật và một cuộc rút lui.[1] Với các cuộc tấn công thất bại tại Alam Halfa, Rommel không chỉ đánh mất khả năng chiến dịch của mình để khởi đầu các chiến dịch tấn công khác, mà ông còn mất khả năng chiến dịch và chiến thuật để phòng thủ căn cứ của quân đội Đức Quốc xã tại châu Phi.[1] Các mục tiêu chiến lược của khối Trục ở chiến trường châu Phi không còn có thể thực hiện được nữa.[1]
Conetta, Carl (tháng 9 năm 1997). “Defensive Military Structures in Action: Historical Examples”. Originally published in Confidence-Building Defense: A Comprehensive Approach to Security & Stability in the New Era, Study Group on Alternative Security Policy and Project on Defense Alternatives, Commonwealth Institute, Cambridge, MA., May 1994. Knight, Charles & Unterseher, Lutz. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2013.
Cox and Gray, Sebastian and Peter (2002). Air Power History: Turning Points from Kitty Hawk to Kosovo. Frank Cass. ISBN0-7146-8257-8.
Naveh, Shimon (1997) [1991]. In Pursuit of Military Excellence; The Evolution of Operational Theory. London: Francass. ISBN0-7146-4727-6.
Playfair, Major-General I.S.O.; with Flynn R.N., Captain F.C.; Molony, Brigadier C.J.C.; Gleave, Group Captain T.P. (2004) [1st. pub. HMSO 1960]. Butler, J.R.M (biên tập). The Mediterranean and Middle East, Volume III: British Fortunes reach their Lowest Ebb (September 1941 to September 1942). History of the Second World War United Kingdom Military Series. Naval & Military Press. ISBN1-84574-067-X.
Tucker, Spencer C. (2009). A Global Chronology of Conflict: From the Ancient World to the Modern Middle East: From the Ancient World to the Modern Middle East. ABC-CLIO. tr. 1979. ISBN1851096728.