Ông Phan Huy Quát, sinh năm 1908 tại Thạch Châu, Lộc Hà, Hà Tĩnh trong gia đình dòng họ Phan Huy giàu truyền thống khoa bảng ở xứ Nghệ, là con trai trưởng của Tiến sĩ Phan Huy Tùng-Lang trung Bộ hình triều Nguyễn, anh trai cùng cha khác mẹ của nhà sử học Việt Nam Phan Huy Lê.
Tham gia chính phủ Quốc gia Việt Nam
Năm 1945 khi Nội các chính phủ Trần Trọng Kim thành lập, ông được bổ nhiệm chức vụ Đổng lý Văn phòng Nội các. Khi Quốc gia Việt Nam được thành lập, ông làm Tổng trưởng các bộ Giáo dục (1949), Quốc phòng (1950 - 1954) trong các chính phủ Quốc gia Việt Nam thời Quốc trưởngBảo Đại. Sau đó ông lui về hành nghề bác sĩ tại Sài Gòn.
Ngày 8 tháng 3 năm 1965, Mỹ chính thức đổ quân viễn chinh lên Đà Nẵng. Phía Mỹ đã không thông báo cho Việt Nam Cộng hòa về thời gian và địa điểm đổ quân, mặc dù một bản tin của Bộ Quốc phòng Mỹ hai ngày trước tuyên bố rằng Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam là theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Sáng ngày 8 tháng 3, một sĩ quan Mỹ đến gặp Phan Huy Quát, yêu cầu soạn thảo một thông cáo chung bằng hai thứ tiếng Anh-Việt để thông báo rộng rãi, lúc đó ông Quát mới biết quân Mỹ đã đổ bộ vào Việt Nam. Khi biết tin thì quân Mỹ đã đổ bộ rồi, Phan Huy Quát phải hợp thức hóa việc này bằng cách gọi Tổng trưởng Phủ Thủ tướng là Bùi Diễm cùng với một viên chức Mỹ là Melvin Manfull soạn ngay thông cáo chào mừng quân Mỹ, với chỉ đạo: "Viết càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi".[3] Trong những tháng sau đó, Mỹ đổ bộ hàng chục vạn quân, lính Mỹ hiện diện ở khắp miền Nam.
Ngày 25 tháng 5 năm 1965 ông quyết định cải tổ Nội các,[4] thay thế một số Tổng trưởng nhưng phe giáo dân Thiên Chúa giáo lại phản đối. Quốc trưởng Phan Khắc Sửu cũng không đồng tình nên không phê chuẩn.[5] Tình hình bế tắc kéo dài sang tháng 6 vì bất đồng giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát không giải quyết được; chính phủ hoàn toàn bị tê liệt.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình bị kẹt lại ở Việt Nam do không kịp lên máy bay Mỹ di tản. Ông không ra trình diện theo lệnh của chính quyền mới và sống trốn tránh trong một thời gian ngắn, sau đó tìm cách tổ chức vượt biên. Trên đường vượt biên, ông bị phát hiện, bắt giữ cùng con trai út là Phan Huy Anh, bị tuyên án tù rồi mất tại nhà lao Chí Hòa[6] vì bệnh viêm gan vào ngày 27 tháng 4 năm 1979.
Xem thêm
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Phan Huy Quát.