Mỹ Châu (sinh ngày 21 tháng 8 năm 1950) là một nữ nghệ sĩ cải lương nổi tiếng người Việt Nam trên sân khấu lẫn thị trường băng đĩa thập niên 60 - 70 thế kỉ trước. Cô được mệnh danh là "Nữ hoàng kiếm hiệp" của cải lương Việt Nam (cùng thời với Lệ Thủy, Phượng Liên, Minh Cảnh, Minh Vương, Minh Phụng,...). Nhờ sở hữu chất giọng trầm đặt biệt cùng cách ca diễn sang trọng nên tên cô được dùng đặt tên cho một dây đàn đặc biệt của cải lương mang tên "dây Mỹ Châu".
Sự nghiệp
Trước năm 1975
Mỹ Châu tên thật là Nguyễn Thị Mỹ Châu, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1950 tại Thủ Thừa, Long An, là con út trong gia đình có 4 người con. Thuở nhỏ, cô từng bộc lộ năng khiếu âm nhạc và mong muốn trở thành bác sĩ. Cha mất sớm, cô và các anh chị đều do người mẹ nuôi lớn. Tuy niềm đam mê của Mỹ Châu là ca tân nhạc, nhưng cô cũng học thêm cổ nhạc từ một người bạn của anh để chiều lòng mẹ cô vốn là một người rất mê cải lương.
Năm 7 tuổi, Mỹ Châu được ông bầu Ba Cang, chủ đoàn cải lương Tiếng Chuông, phát hiện tiềm chất của cô trong một lần cô hát cải lương tại trường. Năm 1961, Mỹ Châu bắt đầu bước vào nghề cải lương khi vừa 11 tuổi với lời mời của ông bầu Cang và sự kiềm cặp của mẹ.[1].
Khởi sự từ ban Tiếng Chuông, vai diễn đầu tiên của Mỹ Châu là vai đào con Sao Ly trong vở Giai nhân bên suối mộng. Không lâu sau, cô nhận được lời mời của ban Kim Chưởng, tuy nhiên, được sự đồng ý của mẹ, cuối cùng cô về với ban Lan và Được vừa được thành lập cuối năm 1961. Trong suốt gần một năm, cô chỉ được phân công ngâm thơ hậu trường những vở Nước chảy qua cầu, Khi hoa anh đào nở.[2]
Mãi đến cuối năm 1962, khi vở Khi rừng mới sang thu được dựng, cô mới được phân thủ vai Ấu Quân. Được sự giới thiệu của danh cầm Hai Long, cô về với ban Thành Công, ca bài vọng cổ Bá Nha – Tử Kỳ, phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Do sự thành công của tiếng hát phát thanh, cô tiếp tục được các đoàn Kim Chung và Thủ Đô mời tham gia.
Năm 1964, cô về đoàn Thủ Đô 2 làm đào chánh, hát cặp cùng nghệ sĩ Dũng Thanh Lâm. Do thể hình còn nhỏ, nên đoàn hát phải thiết kế loại phục trang nhiều lớp dành riêng cho cô để có được vóc dáng phù hợp với vai diễn. Báo chí miền Nam thời bấy giờ đã đặt cho cô biệt danh "Lolita Mỹ Châu" để so sánh với nhân vật Lolita nổi tiếng thời bấy giờ trên tiểu thuyết và phim ảnh.
Năm 1965, cô gia nhập đoàn Kim Chung. Tại đây cô được sự dìu dắt của nghệ sĩ Minh Cảnh, Mỹ Châu đã thành công khi thủ vai Mai Thảo trong vở Trinh nữ lầu xanh, được nhiều người mến mộ, khiến cô trở thành một trong những ngôi sao sáng chói bậc nhất trên sân khấu Kim Chung.
Cuối năm 1965, Minh Cảnh rời đoàn Kim Chung để thành lập đoàn hát riêng, ông bầu Long điều kép trẻ đó là Minh Phụng khi ấy còn là kép ba trên sân khấu Kim Chung về hát thế các vai chính của Minh Cảnh, ngay lập tức đôi liên danh "Minh Phụng - Mỹ Châu" được khán giả đón nhận nồng nhiệt, như một hiện tượng thời đó cả hai vụt sáng trở thành "Đôi tình nhân sân khấu" và nhanh chóng được các hãng băng dĩa chú ý đến và mời thu âm, cho ra đời các vở diễn nổi tiếng làm nên tên tuổi và khiến giới mộ điệu phải say đắm vào những năm của thập niên 1970 và cho đến tận bây giờ. Phải nói một điều Minh Phụng là người đóng cặp với Mỹ Châu ăn ý nhất trên sân khấu lẫn trong băng đĩa. Đặc biệt trong các vở tuồng kiếm hiệp hương xa trứ danh: Tâm sự loài chim biển, Kiếm sĩ dơi, Kiếp nào có yêu nhau, Băng Tuyền nữ chúa,...
Năm 1967, Mỹ Châu đoạt Huy chương Vàng triển vọnggiải Thanh Tâm qua vai diễn Hoa Lệ Tuyền trong vở Gió giao mùa. Cùng đợt với Phương Bình, Bảo Quốc, Ngọc Bích.
Vào đầu thập niên 70, Hãng đĩa Việt Nam đã dồn mọi nỗ lực để lăng xê Mỹ Châu trên thị trường băng đĩa. Những vở tuồng được thu vào băng đĩa như: Tâm sự loài chim biển, Kiếp nào có yêu nhau, Kiếm sĩ dơi, Người tình trên chiến trận, Mùa thu trên Bạch Mã Sơn, Tiêu Anh Phụng, Khi rừng mới sang thu, Bóng hồng sa mạc,... đều do Mỹ Châu đảm nhận các vai chính và khiến cô trở thành một trong những nghệ sĩ được thu thanh nhiều nhất và ăn khách nhất thời đó. Có thể nói bên cánh đào Mỹ Châu và Phượng Liên được đánh giá là "2 bà hoàng" của các hãng băng đĩa cùng với Tấn Tài người được mệnh danh là "Hoàng đế dĩa nhựa" bên cánh kép.
Sau năm 1975
Sau năm 1975, Mỹ Châu vẫn tiếp tục thành công với nhiều vở diễn, như: Khách sạn hào hoa, Tìm lại cuộc đời, Tâm sự Ngọc Hân, Hoa Mộc Lan, Muôn dặm vì chồng, Nàng Hai bến Nghé, Thái hậu Dương Vân Nga, Hoa độc trong vườn, Ngày tàn của bạo chúa, Sân khấu về khuya, Truyền thuyết về tình yêu,...
Trong những năm 1990–1992, khi video cải lương bắt đầu xuất hiện và đạt chất lượng cao, Mỹ Châu lại xuất hiện trên băng hình trong các vở mà cô đã diễn trước 1975, như: Chiều lạnh tuyết băng sơn, Giai nhân và loạn tướng, Kiếm sĩ dơi, Trăng nước Lạc Dương thành, Nắng thu về ngõ trúc, Lời thơ trên tuyết, Anh hùng xạ điêu,... và đóng nhiều vở xã hội. Năm 1990, cô lập gia đình với Nghệ sĩ Đức Minh khi đã 40 tuổi.[3][4] Năm 1995, Mỹ Châu tuyên bố giải nghệ.
Từ năm 1997, Mỹ Châu hợp tác với các đài truyền hình, đặc biệt là Đài Truyền hình Cần Thơ, hãng phim Tây Đô, đài HTV,... để thực hiện lại các vở tuồng nổi tiếng thời còn ở sân khấu Kim Chung và hãng đĩa Việt Nam như A Khắc Thiên Kiều, Kiếp nào có yêu nhau, Bóng hồng sa mạc, Đợi anh mùa lá rụng, Khi rừng mới sang thu, Tiêu Anh Phụng, Sở Vân cứu giá,... Mỹ Châu tự mình tham gia đạo diễn và dàn dựng nên các tuồng thu lại này vẫn giữ được hầu hết lời văn và tâm ý của các tác giả, các tuồng đều đạt chất lượng nghệ thuật cao dù có nhiều diễn viên, nghệ sĩ sau 1975 như Thanh Ngân, Phượng Hằng, Thoại Mỹ, Cẩm Thu, Ngân Huệ, Kim Tử Long, Trọng Phúc, Tuyết Ngân, Vũ Luân, Kim Tiểu Long, Kiều Oanh, Bảo Chung, Phú Quý,... và các tài danh trước 1975 như Minh Phụng, Minh Vương, Hồng Nga, Thanh Tuấn, Thanh Sang, Phương Quang, Bảo Quốc, Văn Chung, Hoài Thanh, Út Bạch Lan, Bích Thủy, Hữu Tài, Đức Minh,...
Sau năm 2002, Mỹ Châu sang Hoa Kỳ để đoàn tụ với gia đình. Ở bên đó, cô sống tại tiểu bang Georgia và từ chối mọi lời mời đi hát. Trước khi ra đi, Mỹ Châu đã diễn hai vở Võ Tắc Thiên và Tơ vương sầu ly biệt (Hãng phim Tây Đô).
Vào những năm 2007–2008, Mỹ Châu hợp tác với Đài Truyền hình Cần Thơ để dàn dừng lại một số vở cải lương mà cô đã từng thành công trong suốt 45 năm diễn trên sân khấu như Chiều đông gió lạnh về, Khúc hát đoạn tình,... và một số vở xã hội như Mưa bay trong đời, Người yêu của cha tôi, Tình đất tình người, Tình đời,... Năm 2009, Mỹ châu cùng dịp Diệp Vàm Cỏ trình diễn nhiều bài tân cổ như Ký ức hoa đào, Nội tôi, Hương cau, Chị tôi,... Năm 2009–2010, Mỹ Châu đã dựng lại Hoa độc trong vườn, Muôn dặm vì chồng,...
Mỹ Châu cho ra đời CD "Chùm Tri âm" gồm 10 khúc tri âm như Dạ khúc, Ảo khúc, Cửu khúc, Niệm khúc. Qua DVD Nỗi nhớ (tác giả: Tường Châu) với các bài Chuyện hợp tan, Ở hai đầu nỗi nhớ, Thương một người ở xa, Nhớ mẹ lý mồ côi, Bóng mát, Sợi nhớ sợi thương và Hoa mướp sau nhà với các bài Bà lão ăn mày, Khi rừng xanh thay lá mới, Em vẫn đợi anh về, Nhớ mẹ,...
Mỹ Châu được cho là luôn được cộng đồng mạng ưu ái về tài năng cũng như tấm lòng với nghệ thuật Việt Nam, nhiều bài viết hay ghi nhận những thành quả, những cách làm mới, những đề tài mới, nghệ sĩ Mỹ Châu được đánh giá là nghệ sĩ của những năm 2009 - 2010. Nhiều đài truyền hình, báo đưa tin và phỏng vấn Mỹ Châu liên tục. Xuân Tân Mão 2011, Mỹ Châu thực hiện tác phẩm Sân khấu về khuya.
Năm 2012, Mỹ Châu hoàn toàn giải nghệ sau khi thực hiện chương trình "Tạ tình tri âm", gồm 5 phần. Ngày 15 tháng 1 năm 2014, chồng Mỹ Châu là nghệ sĩ Đức Minh qua đời.
Cô được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1993 và Huy chương Vì sự nghiệp sân khấu Việt Nam vào năm 1999 để tôn vinh những cống hiến và tận tụy yêu nghề của một minh tinh trầm lặng.