Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ dieselGeneral Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[1]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[1]
DE-526 được đặt lườn tại Xưởng hải quân Boston ở Boston, Massachusetts vào ngày 25 tháng 9, 1943,[1] và được hạ thủy vào ngày 2 tháng 11, 1943.[2] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 13 tháng 1, 1944,[2] là chiếc tàu hộ tống khu trục cuối cùng được Hoa Kỳ chuyển giao. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh cùng ngày hôm đó như là chiếc HMS Inman (K571), dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Philip Sydney Evans.[3]
Lịch sử hoạt động
Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Inman hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương và tại vùng eo biển Manche từ năm 1943 đến năm 1945.[2]