Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ dieselGeneral Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[2]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[2]
Cái tên Burges nguyên được dự định đặt cho chiếc BDE-16, cũng là một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts; và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Mare Island, ở Vallejo, California vào ngày 14 tháng 3, 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 9, 1942, và được đỡ đầu bởi bà Ann Bennett Wichels.[3] Tuy nhiên kế hoạch chuyển giao bị hủy bỏ khi Hoa Kỳ quyết định giữ lại con tàu và đổi tên thành USS Edgar G. Chase (DE-16). Do đó cái tên Burges được chuyển sang chiếc BDE-12.
Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Burges hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương vào các năm 1943 và 1944, rồi đến giai đoạn cuối Thế Chiến II đã hoạt động tại khu vực eo biển Manche.[1]