Hunter có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.340 tấn Anh (1.360 t), và lên đến 1.859 tấn Anh (1.889 t) khi đầy tải. Nó có chiều dài chung 323 foot (98,5 m), mạn thuyền rộng 33 foot (10,1 m) và độ sâu của mớn nước là 12 foot 5 inch (3,8 m). Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nướcParsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất 34.000 mã lực càng (25.000 kW), cho phép nó đạt tốc độ tối đa 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph). Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. Hunter có thể mang theo tối đa 470 tấn Anh (480 t) dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa 5.530 hải lý (10.240 km; 6.360 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph). Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 137 sĩ quan và thủy thủ trong thời bình,[1] nhưng tăng lên đến 146 người trong thời chiến.[2]
Sau khi nhập biên chế, Hunter được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội Địa Trung Hải.[5] Con tàu đã tuần tra tại vùng biển Tây Ban Nha đang khi xảy ra cuộc nội chiến tại đây nhằm thực thi chính sách cấm vận vũ khí đối với các bên xung đột.[5] Nó trúng phải một quả mìn về phía Nam Almeria vào xế trưa ngày 13 tháng 5 năm 1937; bị hư hại đáng kể do bị nghiêng nặng, hệ thống vô tuyến hư hỏng và phần mũi tàu bị ngập nước. Tám thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và 24 người khác bị thương.[6] Con tàu được chiếc tàu khu trục Lázaga thuộc phe Cộng hòa Tây Ban Nha kéo ra khỏi bãi mìn.[5] Các quả mìn này được hai tàu phóng lôiE-boat (nguyên của Đức) Falange và Requeté thuộc phe Quốc gia Tây Ban Nha rải nhiều tuần trước đó.[7]Hunter được tàu chị em Hyperion kéo đến Almeria, đến nơi vào những giờ đầu tiên của ngày 14 tháng 5; sau đó tàu tuần dương hạng nhẹArethusa kéo nó đến Gibraltar,[6] nơi nó được sửa chữa tạm thời từ ngày 15 tháng 5 đến ngày 18 tháng 8. Hunter lại được kéo đến Malta để được sửa chữa triệt để vào tháng 8 năm 1937, nhưng công việc chỉ hoàn tất vào 10 tháng 11 năm 1938. Nó lại được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 sau khi hoàn tất sửa chữa, rồi trải qua một đợt tái trang bị ngắn tại Malta từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 1939. Chiếc tàu khu trục được gửi đến Plymouth cho một đợt tái trang bị sâu rộng hơn vào giữa tháng 8 năm 1939 và kéo dài cho đến ngày 27 tháng 8.[5]
Trong Trận Narvik thứ nhất vào ngày 10 tháng 4 năm 1940, Hunter cùng bốn tàu khu trục lớp H khác thuộc Chi hạm đội Khu trục 2 đã tấn công các tàu khu trục Hải quân Đức vốn đã vận chuyển binh lính Lục quân Đức sang xâm chiếm Narvik ở miền Bắc Na Uy vào ngày hôm trước. Tàu khu trục Hardy, soái hạm của lực lượng, dẫn đầu bốn tàu chị em xâm nhập Ofotfjord cho một đợt tấn công bất ngờ lên cảng Narvik trong một cơn bão tuyết. Hotspur và Hostile thoạt tiên được bố trí ở lối ra vào, nhưng Hunter đi tiếp theo sau Hardy tiến vào cảng và đã phóng toàn bộ tám quả ngư lôi vào khối tàu đối phương. Một quả đã đánh trúng tàu khu trục Đức Z22 Anton Schmitt ở phòng động cơ phía trước, tiếp nối bởi một quả đạn pháo 4,7 inch của Hunter. Khi các con tàu Anh rút lui, chúng đụng độ với năm tàu khu trục Đức ở khoảng cách ngắn; hai tàu đối phương đã cắt ngang chữ T các con tàu Anh và bắn trúng Hardy, khiến nó bốc cháy và phải mắc cạn. Hunter sau đó dẫn đầu đội hình, nhưng nó bị phía Đức gây hư hại nặng, có thể do trúng một ngư lôi, và bị giảm tốc độ nhanh chóng. Có mặt ngay phía sau trong đội hình, Hotspur tạm thời mất điều khiển do trúng trúng hai phát đạn và đã húc phải Hunter từ phía sau. Khi các con tàu xoay xở thoát ra được, Hunter bị lật úp và đắm ở tọa độ 68°24′53″B17°10′22″Đ / 68,41472°B 17,17278°Đ / 68.41472; 17.17278.[10] 107 thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và năm người khác qua đời sau đó do vết thương quá nặng. Các tàu khu trục Đức đã cứu vớt được 46 người; họ được thả tại Thụy Điển vào ngày 13 tháng 4.[11]
Tái khám phá
Sau gần 70 năm mất tích, xác tàu đắm của Hunter được chiếc tàu quét mìnHNoMS Tyr của Hải quân Hoàng gia Na Uy phát hiện vào ngày 5 tháng 3 năm 2008. Địa điểm được ghi nhận như một nghĩa trang chiến tranh để tưởng nhớ các thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận.[12] Một loạt các hoạt động tưởng niệm phối hợp được tổ chức trên các tàu chiến Anh và Na Uy vào ngày thứ bảy 8 tháng 3 năm 2008 để vinh danh những người đã ngã xuống trong trận Narvik. Trên một ngàn người thuộc khối NATO đã tham gia, bao gồm thủy thủ Anh và Na Uy, Thủy quân Lục chiến Hoàng gia và binh lính. Được dẫn đầu bởi chiếc Albion, soái hạm của Hạm đội Đổ bộ Anh, năm chiếc tàu chiến tham gia đã đi theo hàng dọc ngang qua địa điểm được chiếc Tyr đánh dấu. Địa điểm an nghỉ của Hunter được đánh dấu bởi những vòng hoa ném xuống biển.[13]
^“World War Two ship found in Norwegian fjord”. Reuters. 10 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2008. We searched the area where HMS Hunter most likely was located and spent around 14 hours before we found the vessel.
English, John (1993). Amazon to Ivanhoe: British Standard Destroyers of the 1930s. Kendal, England: World Ship Society. ISBN0-905617-64-9.
Gretton, Peter (1984). El Factor Olvidado: La Marina Británica y la Guerra Civil Española (bằng tiếng Tây Ban Nha). Editorial San Martín. ISBN84-7140-224-6.
Moreno, Fernando (1998). La guerra silenciosa y silenciada: historia de la campaña naval durante la guerra de 1936-1939 (bằng tiếng Tây Ban Nha). 3 - Moreno de Alborán y de Reyna. Gráfica Lormo. ISBN84-923691-3-2.