Hesperus có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.340 tấn Anh (1.360 t), và lên đến 1.859 tấn Anh (1.889 t) khi đầy tải. Nó có chiều dài chung 323 foot (98,5 m), mạn thuyền rộng 33 foot (10,1 m) và độ sâu của mớn nước là 12 foot 5 inch (3,8 m). Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nướcParsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất 34.000 mã lực càng (25.000 kW), cho phép nó đạt tốc độ tối đa 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph). Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. Hesperus có thể mang theo tối đa 470 tấn Anh (480 t) dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa 5.530 hải lý (10.240 km; 6.360 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph).[2] Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 152 sĩ quan và thủy thủ.[3]
Con tàu được thiết kế để trang bị bốn khẩu pháo QF 4,7 inch (120 mm) Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn, đặt tên theo thứ tự ‘A’, ‘B’, ‘X’ và ‘Y’ từ trước ra sau; nhưng khẩu ‘Y’ bị tháo dỡ để lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Cho mục đích phòng không, Hesperus có hai khẩu đội súng máy0,5 in (13 mm) Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi 21 in (530 mm).[2] Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng thoạt tiên được trang bị, nhưng tăng lên ba đường ray và tám máy phóng trong khi hoàn thiện. Lượng mìn sâu mang theo cũng tăng lên tương ứng từ 20 lên 110 quả.[4][5]Hesperus được hoàn tất mà không có tháp điều khiển hỏa lực, nên ba khẩu pháo 4,7 inch QF góc thấp của nó được vận hành tại chỗ sử dụng dữ liệu cung cấp bởi một máy đo tầm xa.[1] Nó cũng được trang bị sonar ASDIC để phát hiện tàu ngầm dựa trên sự phản hồi sóng âm dưới nước khi hoàn tất.[6]
Bệ ống phóng ngư lôi phía sau của Hesperus được thay bằng một khẩu QF 12 pounder 3 inch (76,2 mm) phòng không trong một đợt sửa chữa vào tháng 5-tháng 6 năm 1940.[10] Nó được bổ sung máy định vị vô tuyếnHF/DF đặt trên cột ăn-ten trước,[3] cùng một dàn radar Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn trong đợt tái trang bị vào giữa năm 1941. Tháp điều khiển hỏa lực được trang bị vào lúc nó được sửa chữa tại Immingham.[11] Trong đợt tái trang bị vào đầu năm 1942 tại Falmouth, Cornwall, dàn vũ khi phòng không tầm ngắn được tăng cường với hai khẩu pháo tự độngOerlikon 20 mm được trang bị hai bên cánh của cầu tàu; ngoài ra tháp điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa gắn trước đó bên trên cầu tàu được thay bằng radar Kiểu 271 định vị mục tiêu.[12] Đang khi được sửa chữa vào đầu năm 1943, nó được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống. Tháp pháo ‘A’ được thay thế bằng dàn súng cốiHedgehog chống tàu ngầm, và các khẩu súng máy Vickers bốn nòng cũng được thay bằng một cặp Oerlikon 20 mm. Trong đợt tái trang bị này, pháo QF 12 pounder góc cao được tháo dỡ lấy chỗ mang thêm mìn sâu, và Hesperus được bổ sung một máy phóng mìn sâu Mk X nặng 1 tấn và bốn máy phóng Mk IV. Nó cũng được trang bị máy nhiễu âm Foxer để bảo vệ chống lại ngư lôi dẫn hướng bằng âm thanh của Đức.[13]
Lịch sử hoạt động
Cả sáu chiếc tàu khu trục lớp H cải biến nguyên của Brazil thoạt tiên hình thành nên Chi hạm đội Khu trục 9 trực thuộc Hạm đội Nhà và được giao nhiệm vụ bảo vệ chống tàu ngầm cho căn cứ tại Scapa Flow.[8] Sau khi Đức chiếm đóng Đan Mạch, Hesperus cùng tàu chị em Havant được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho việc chiếm đóng quần đảo Faroe vào giữa tháng 4.[10] Trong Chiến dịch Na Uy, nó vận chuyển các đơn vị Scotland đến Mo i Rana vào ngày 15 tháng 5,[14] và bị hư hại do các quả bom ném suýt trúng từ các máy bay ném bom bổ nhàoJunkers Ju-87 "Stuka" cùng ngày hôm đó. Con tàu được gửi đến Dundee để sửa chữa, vốn kéo dài một tháng.[8] Sau khi hoàn tất, nó được giao nhiệm vụ hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm.[10]
Cùng với tàu chị em Harvester, Hesperus đã đánh chìm tàu ngầmU-boat Đức U-208 vào ngày 7 tháng 12 năm 1941 tại Đại Tây Dương về phía Tây Gibraltar.[16] Đến ngày 15 tháng 1 năm 1942, đang khi hộ tống Đoàn tàu HG 78, radar của con tàu đã phát hiện tàu ngầm U-93 trên mặt nước; chỉ huy con tàu, Thiếu tá Hải quân A. A. Tait, ra lệnh cho Hesperus húc vào đối phương. Cho dù chỉ trúng sượt qua, vụ va chạm mạnh đến mức Hạm trưởng và Hạm phó chiếc tàu ngầm bị rơi từ tháp chỉ huy vào một chiếc xuồng máy trên sàn tàu khu trục. Bằng cách thả mìn sâu ở độ nông nhất và bắn trúng nhiều phát đạn pháo 4,7 inch, nó đã buộc thủy thủ đoàn chiếc tàu ngầm phải bỏ tàu. Hesperus đã cứu vớt được 40 người sống sót, nhưng không thể đổ bộ sang chiếc tàu ngầm trước khi nó chìm.[17] Tuy nhiên do chấn động của cú húc, phần mũi tàu bị ngập nước, lườn tàu bên mạn phải bị bung ra và uống cong mép chân vịt bên mạn phải. Con tàu được sửa chữa tạm thời tại Gibraltar, rồi được sửa chữa triệt để tại Falmouth từ ngày 9 tháng 2 đến tháng 4.[12]
Đến tháng 3 năm 1942, năm chiếc còn lại trong lớp phụ Havant trở thành những soái hạm cho các đội hộ tống từ B-1 đến B-5, và do đó Hesperus dẫn đầu Đội hộ tống B-2 khi nó hoàn tất việc sửa chữa vào tháng 4. Đang khi hộ tống cho Đoàn tàu HX 219 gần Rockall vào ngày 26 tháng 12, nó đã cùng tàu khu trục Vanessa đánh chìm tàu ngầm U-357 bằng cách húc. Lần này đáy lườn tàu bị hở một đoạn kéo dài khoảng một phần tư chiều dài con tàu, nên nó lại trải qua thêm ba tháng sửa chữa khác tại Liverpool.[18]
Con tàu gia nhập trở lại đội của nó vào ngày 17 tháng 3 năm 1943, và đã đánh chìm tàu ngầm U-191 bằng dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog vào ngày 23 tháng 4, đang khi hộ tống Đoàn tàu ONS 4. Khoảng ba tuần sau, nó tiếp tục đánh chìm tàu ngầm U-186 vào ngày 12 tháng 5 đang khi bảo vệ cho Đoàn tàu SC 129. Nó tiếp tục làm nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến khi được cho tái trang bị từ tháng 1 đến ngày 29 tháng 3 năm 1944,[12][19] rồi nó làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu đi lại giữa Gibraltar và Anh.[20] Vào tháng 7 năm 1944, con tàu chuyển di hài của Đại tá Hải quân để an táng giữa biển. Sau đó nó được chuyển sang Đội hộ tống 19, và đến tháng 1 năm 1945 được cho đặt căn cứ tại Plymouth.[19] Vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, nó cùng tàu chị em Havelock tấn công xác tàu của chiếc tàu ngầm U-246 về phía Tây Bắc đảo Anglesey vào ngày hôm đó, nhầm lẫn rằng đó là chiếc tàu ngầm U-242 vốn bị một thủy phi cơShort Sunderland phát hiện trước đó.[19][21]
Hai tuần sau, Hesperus cùng Đội hộ tống 14 hộ tống một nhóm tàu U-boat đầu hàng đi từ Loch Alsh đến Lough Foyle. Đến ngày 27 tháng 5, nó cùng với Havelock hộ tống chính phủ Na Uylưu vong quay trở về Oslo, và ở lại đây cho đến ngày 1 tháng 6. Mười ngày sau, nó bắt đầu phục vụ như một tàu mục tiêu để huấn luyện máy bay, một vai trò kéo dài cho tận năm sau. Hesperus được chấp thuận để tháo dỡ vào ngày 18 tháng 2 năm 1946 và được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 5. Con tàu được kéo đến Grangemouth để tháo dỡ, nhưng công việc chỉ bắt đầu từ ngày 17 tháng 5 năm 1947.[12] Biểu trưng của Hesperus được lưu giữ tại nhà thờ Yeovil Parish.[22]
Brown, David K. (2007). Atlantic Escorts: Ships, Weapons & Tactics in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-012-2.
Dickens, Peter (1972). HMS Hesperus. Windsor, UK: Profile Publications. OCLC33077697.
English, John (1993). Amazon to Ivanhoe: British Standard Destroyers of the 1930s. Kendal, UK: World Ship Society. ISBN0-905617-64-9.
Friedman, Norman (2009). British Destroyers From Earliest Days to the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-081-8.
Haarr, Geirr H. (2010). The Battle for Norway: April–June 1940. Annapolis, MD: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-051-1.
Lenton, H. T. (1998). British & Commonwealth Warships of the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN1-55750-048-7.