Cái tên bắt nguồn từ chữ Hy Lạp cổ κατάφρακτος kataphraktos (số nhiều: κατάφρακτοι kataphraktoi), có nghĩa "được bảo hộ" hay "bao phủ mọi mặt". Trong lịch sử, cataphract là lực lượng kị binh nặng bậc nhất, với ngựa chiến và kị sĩ đều được trang bị loại giáp nặng phủ kín từ đầu đến chân, trong khi vũ khí được sử dụng phổ biến nhất cũng thuộc hạng nặng như thương, giáo dài, hoặc cung tên, mác.
Ban đầu, cataphract thường được các dân tộc du mục đông Iran hay các vương quốc ở Trung Cận Đông cổ đại sử dụng. Tại châu Âu, lực lượng cataphract được các vương quốc Hy Lạp và người La Mã sau này du nhập sau các cuộc chiến tranh với Parthia và Sassanid ở phía đông, bởi cataphract Ba Tư hoàn toàn áp đảo các equites Rome trên chiến trường, điển hình như thất bại của quân đội Cộng hòa La Mã tại trận Carrhae năm 53 TCN. Đến thời Trung cổ, cataphract trở thành hình mẫu cho các hiệp sĩTây Âu trung đại. Cả cataphract và hiệp sĩ đều là những đơn vị kỵ binh nặng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến tranh thời Trung cổ. Tuy nhiên, chiến thuật sử dụng cataphract có sự khác biệt lớn, và địa vị của các cataphract trong xã hội Trung cổ không nổi bật như hiệp sĩ. Giới hiệp sĩ vừa là chiến binh vừa được coi là biểu tượng của tầng lớp quý tộc, giống như các samurai; còn cataphract chỉ đơn thuần là một binh chủng mà không thể hiện một địa vị rõ rệt trong giới thượng lưu (mặc dù họ vẫn được xem trọng hơn dân thường).
Từ nguyên
Tên gọi "cataphract" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ là Κατάφρακτος (kataphraktos hoặc katafraktos), vốn được ghép từ 2 từ gốc: giới từ κατά và φρακτός (nghĩa là được che phủ, bảo vệ), tạo thành 1 từ ghép, nghĩa là "được bảo hộ" hoặc "phủ kín mọi mặt"[1]. Cụm từ này xuất hiện lần đầu trong tiếng Latinh, theo ghi chép của Sisennus: "'loricatos, quos cataphractos vocant'", nghĩa là "người được bảo hộ".
Cuối thời kỳ đế quốc La Mã, đã xuất hiện một số tranh luận về cụm từ này, khi kị binh giáp nặng dùng để chỉ kị binh equites dưới thời Cộng hòa La Mã, gọi là cataphract. Vegetius_một học giả La Mã thế kỷ IV đã dùng cụm từ lorica segmentata hoặc lorica hamata để mô tả cataphract, trong khi sử gia La Mã gốc Hy Lạp đương thời Ammianus Marcellinus lại đề cập: "cataphracti equites (quos clibanarios dictitant)"_kị binh cataphract, theo cách ta gọi họ là clibanarii (đáng chú ý, clibanarii là cụm từ ngoại lại, không phải tiếng Latinh cổ điển).
Clibanarii sau đó trở thành từ vựng Latinh, có nghĩa "kị sĩ giáp lưới sắt", tương đương chữ κλιβανοφόροι (klibanophoroi) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa "chiến binh khuôn nung'' hay ''khuôn rèn sắt", mặc dù từ này xuất hiện trong văn kiện tiếng Latinh nhiều hơn tiếng Hy Lạp xuyên suốt thời kỳ cổ đại. Có hai giả thuyết về nguồn gốc của klibanophoroi: đó có thể dựa vào thực tế rằng kị sĩ mặc bộ giáp sẽ cảm thấy nóng nực như đứng trong lò nung, hoặc thậm chí bắt nguồn từ tiếng Ba Tư cổ của chữ grivpanvar, có nghĩa "chiến binh đeo bọc cổ".
Ammianus Marcellinus ghi nhận: "cataphracti equites (quos clibanarios dictitant)", tức là "kỵ binh cataphract (được gọi là clibanarii)". Về bản chất, clibanarius (số nhiều: clibanarii), cũng là một loại kị binh trang bị tương tự cataphractius. Nhưng trong khi cataphracti dùng thương, giáo dài, lực lượng clibanarii dùng chùy hoặc kiếm[2]. Ở Ba Tư, clibanarii cũng được dùng ám chỉ các cataphract bắn cung (equites sagitarii clibanarii) hoặc đơn giản chỉ là kỵ binh nặng, dẫn đến trường hợp dùng tên gọi clibanarius để nói về cataphract ở các vương quốc Cận Đông, trong khi giới quân sự phương Tây vẫn giữ tên cũ cataphractius. Đôi lúc, các cataphract chỉ dùng thương, không dùng cung lại được gọi là lancer.
Các sử gia La Mã như Arrian, Aelian và cả Asclepiodotus đều sử dụng cụm từ cataphract trong báo cáo quân sự để mô tả một loại kị binh mà cả ngựa chiến lẫn kị sĩ đều được phủ giáp một phần hoặc toàn bộ cơ thể. Một sử gia Byzantine, Leo Diaconis, gọi là πανσιδήρους ἱππότας (pansidearoos ippotas), có nghĩa là "kị sĩ mặc giáp sắt toàn thân".
Nguồn gốc cataphract ở Trung Cận Đông
Nhu cầu sử dụng kị binh trong quân sự được xuất hiện từ thời cổ đại bởi cư dân du mục sống trên các vùng thảo nguyên Trung Á_những người đầu tiên thuần hóa ngựa hoang và phát minh ra xe ngựa. Hầu hết các bộ lạc du mục này sống tại đây vào khoảng 2000 TCN, trước khi di cư đến cao nguyên Iran và Đại Iran vào khoảng năm 1000-800 TCN. Hiện nay đã có bằng chứng khảo cổ về 2 bộ tộc du mục thuộc nhóm này là người Mitanni và Kassites, những người được tin rằng đã thuần hóa, chăn nuôi ngựa và huấn luyện ngựa kéo xe để phục vụ các nhu cầu cụ thể nào đó. Chính sự di cư của các bộ tộc này đã dẫn đến sự ra đời của cataphract ở Trung Cận Đông cổ đại. Một yếu tố tiên quyết dẫn đến sự phát triển của cataphract, bên cạnh kĩ thuật luyện kim tiên tiến và nhu cầu về cỏ cần thiết để nuôi ngựa, chính là sự phát triển của chọn giống nhân tạo và kĩ thuật chăn nuôi. Về nguyên tắc, kị binh cataphract cần phải có thể chất cực kỳ mạnh mẽ và sức chịu đựng cao, nên nếu không có sự chọn lọc giống tốt để cho ra những con ngựa có cơ bắp khỏe mạnh và sức khỏe bền bỉ, chúng chắc chắn không thể mang được khối giáp phục cực nặng và cả kị sĩ cũng mang trọng giáp trên chiến trường. Trung Cận Đông được xem là nơi khởi nguồn của cataphract.
Hậu duệ của những cư dân du mục kể trên là người Media_những nhà sáng lập của đệ nhất đế chế Iran vào năm 625 TCN, đã có những ghi chép đầu tiên về kĩ thuật nuôi ngựa giống vào khoảng thế kỷ VII TCN. Ghi chép của người Media đã đề cập đến giống ngựa Nisean có nguồn gốc từ núi Zagros được sử dụng cho kị binh nặng. Ngựa Nisean trở nên nổi tiếng khắp thế giới cổ đại, đặc biệt là ở Ba Tư, nơi chúng trở thành ngựa của giới quý tộc. Chiến mã này còn được gọi là "quân đột kích Nisean". Các thương nhân Hy Lạp cũng tìm mua giống ngựa này, khiến chúng được cho là một tổ tiên của nhiều giống ngựa hiện đại.
Với tính hiệu quả ngày càng cao của kị binh trong chiến đấu, nhu cầu bảo hộ cho kị sĩ lẫn ngựa chiến trở nên thiết yếu, đặc biệt đối với những dân tộc xem kị binh như lực lượng quân sự cơ bản, như người Media và các vương triều Ba Tư kế tục. Ngoài ra, các dân tộc Iran cổ đại coi ngựa như vật linh thiêng (có lẽ chỉ sau cung tên), đặc biệt là tầm quan trọng của nó như một phương thức tác chiến chủ đạo, trở thành truyền thống quan trọng suốt chiều dài lịch sử của các dân tộc này, gắn liền với công cuộc thuần hóa, phát triển loài ngựa.
Hình thức thuần ngựa này lại được lan truyền khắp thảo nguyên Á-Âu và cao nguyên Iran kể từ khoảng 600 TCN, thông qua sự mở rộng của đế chế Media đến Trung Á_vốn là quê hương của tổ tiên họ, ảnh hưởng đến văn hóa của các dân tộc đông bắc Iran như Massagetae, Scythia, Saka và Dahae.
Các quốc gia kế tục Media sau sự sụp đổ của họ vào năm 550 TCN đã phát triển những chiến thuật quân sự trường tồn và những kĩ thuật nuôi ngựa, cùng với hàng thế kỷ giao tranh với các thành bang Hy Lạp cổ điển, người Babylon, Assyria, Scythia và các bộ lạc miền bắc bán đảo Ả Rập nhờ vào vai trò nổi bật của kị binh không chỉ trong chiến đấu mà cả trong đời sống xã hội, dẫn đến sự phụ thuộc về mặt quân sự vào lực lượng cataphract.
Sau khi vương triều Parthia sụp đổ, cataphract lâm vào một giai đoạn thoái trào ngắn. Lý do là vương triều mới Sassanid phải đối phó với các cuộc tấn công của các dân tộc du mục, như người Scythia, người Đột Quyết (Turk), người Hung Nô, cũng như phải bảo vệ biên giới phía đông trước sự trỗi dậy của vương quốc Kushan của người Nguyệt Chi. Kỵ binh Sassanid lúc này không có sự phân loại rõ rệt, một người kỵ binh có thể chiến đấu cận chiến hoặc có thể dùng cung tên. Tuy nhiên, kể từ thời Shapur II (310-379), khi xung đột giữa La Mã và Sassanid càng lúc càng quyết liệt, vương triều Sassanid cảm thấy sự cần thiết của những đơn vị siêu kỵ binh để đối đầu hiệu quả với bộ binh nặng La Mã. Nên cataphract Ba Tư được hồi sinh.
Trang bị của cataphract
Giáp phục
Hầu hết các cataphract đều mang những loại giáp vảy cá, vừa đảm bảo sự linh hoạt để cả kị sĩ và ngựa chiến di chuyển thuận lợi, vừa đảm bảo đủ sức mạnh để chịu đựng chấn động mạnh khi đột phá vào đội hình bộ binh đối phương. Giáp vảy cá được tạo thành từ các mảnh kim loại dạng tròn hay ovan (bằng đồng hoặc sắt), có độ dày từ 4–6 mm, được đan với nhau bằng các sợi dây đồng xuyên qua 2-4 lỗ được đục mỗi mảnh, trước khi được cố định cả lớp vảy cá vào đồ lót thân ngựa (equestrian undergarment). Tổng trọng lượng của bộ giáp có thể lên đến 40 kg (khoảng 88 lbs, chưa kể cân nặng của kị sĩ). Ngoài ra, giáp lamellar cũng được dùng thay cho giáp toàn thân, trong khi ở một số khu vực, cataphract thường mặc giáp lưới.
Trong khi đó, giáp phục cho ngựa thường được kết nối từ nhiều bộ phận rời rạc, gồm những tấm kim loại dạng vảy cá được buộc xung quanh các bộ phận gồm cổ, vai, thân, eo của ngựa với nhau một cách độc lập, nhằm đảm bảo sự linh hoạt trong di chuyển của ngựa mà vẫn đảm bảo các tấm giáp không bị lỏng khi ngựa vận động ở cường độ cao. Thông thường, kị sĩ sẽ đội mũ bảo hộ che phủ đầu và cổ. Người Ba Tư thậm chí còn đội loại mũ có lớp kim loại che kín mặt, chỉ bố trí các khe hở rất nhỏ tại mũi và mắt, lần lượt để kị sĩ thở và quan sát. Sử gia Ammiamus Marcellinus đã ghi lại mô tả về cataphract Ba Tư khi đang phục vụ trong quân đội La Mã dưới triều đại hoàng đế Constantine II chống lại đế quốc Sassanid:
"...all the companies were clad in iron, and all parts of their bodies were covered with thick plates, so fitted that the stiff-joints conformed with those of their limbs; and the forms of human faces were so skillfully fitted to their heads, that since their entire body was covered with metal, arrows that fell upon them could lodge only where they could see a little through tiny openings opposite the pupil of the eye, or where through the tip of their nose they were able to get a little breath. Of these some, who were armed with pikes, stood so motionless that you would think them held fast by clamps of bronze.''
Vũ khí
Loại vũ khí phổ biến nhất của cataphract là thương. Loại thương này, được gọi theo tiếng Hy Lạp cổ là kontos (tiếng La-tinh contus, có nghĩa là ''mái chèo''), gần tương tự như thương sarissa của bộ binh phalanx Hy Lạp_một loại vũ khí chống kị binh hiệu quả, có chiều dài khoảng 4m, với mũi bằng sắt, đồng, hay xuơng thú, thường được cầm bằng cả hai tay. Hầu hết thương đều được buộc vào cổ và chân sau của ngựa chiến bằng những sợi xích nhỏ, nhằm tận dụng động năng lớn khi ngựa đang chạy nhằm bổ sung lực đẩy đến mục tiêu.
Ngoài ra, cataphract cũng được trang bị các vũ khí phụ như kiếm hoặc chùy để giao tranh giáp lá cà, Ở một số khu vực, cataphract không đuơc trang bị khiên, để có thể vác thương bằng cả hai tay. Cataphract Sassanid có thể mang cung hoặc rìu, làm tiêu hao đội hình đối phương trước khi mỗi đợt xung kích. củng cố nền tảng trường tồn của kị xạ trong truyền thống quân sự Ba Tư.
Chiến thuật áp dụng
Mặc dù có sự đang dạng về trang bị và ngoại hình, cataphract vẫn được xem như lực lượng xung kích hạng nặng ở đa số quốc gia áp dụng loại kị binh này, để đẩy lui một bộ phận binh lực đối phương nhờ vào sự yểm trợ từ bộ binh và cung thủ. Về bản chất, cataphract phải được phân biệt rõ ràng giữa các kị binh nặng đơn thuần và lancer, điển hình như ở Trung Cận Đông, khi các loại kị binh này có sự khác biệt về địa vị, tầng lớp và giá trị tinh thần giữa chúng. Ở một số quân đội, cataphract thường được chiêu môh từ tầng lớp quý tộc hoặc người giàu có_thành phần xã hội có thể khả năng chi trả phí nuôi nhiều con ngựa cùng lúc hoặc sở hữu, bảo dưỡng số lượng lớn vũ khí hoặc giáp phục.
Hỗ trợ tầm xa được xem như một yếu tố chiến thuật quan trọng khi trong triển khai cataphract xung kích. Trong trận Carrhae, người Parthia bao vây quân đội La Mã bằng kị xạ khi bắn mưa mũi tên vào đội hình bộ binh đối phương, buộc Crassus phải lập đội hình testudo phòng thủ co cụm, nhằm giảm thiểu thương vong do bị tên bắn. Một khi bộ binh La Mã không còn khả năng kháng cự, lực lượng cataphract Ba Tư sẽ xuất hiện, giuơng hàng thương kontos dài sau đó phá tan hoàn toàn đội quân La Mã đông hơn gấp 4 lần, mà với rất ít thương vong.
Các đợt xung kích của cataphract có hiệu quả cao nhờ vào kỉ luật tốt và số lượng lớn ngựa chiến được triển khai (mỗi cataphract thường có nhiều con ngựa). Từ đầu thế kỷ I TCN, đặc biệt trong các chiến dịch bành trướng lãnh thổ của đế chế Parthia và Sassanid, lực lượng cataphract của họ cũng như các dân tộc Iran như Scythia, Sarmatia đã chiếm ưu thế vượt trội trước một quân đội La Mã thiếu linh hoạt và phụ thuộc nhiều vào tác chiến bộ binh. Các sử gia La Mã thời kỳ đế quốc đã chỉ ra tử huyết này, khi bộ binh cô độc chống đỡ với các đợt xung kích của cataphract. Quân đội Parthia liên tục phá tan các binh đoàn La Mã tronh nhiều cuộc chiến khác nhau bằng sự áp dụng quy mô lớn lực lượng cataphract. Chỉ đến khi tận dụng lợi thế địa hình và duy trì kỉ luật đội hình, quân La Mã mới có thể chống đỡ các đợt xung kích tiếp theo.
Ở Ba Tư , cataphract có thể được dùng như lực lượng kị xạ. Vào thời kỳ Sassanid, binh đoàn Savaran (tiếng Ba Tư: سواران, nghĩa là "kị sĩ") được xây dựng vừa đóng vai trò kị xạ lẫn cataphract nhằm đối đầu với một số bộ lạc đe dọa biên giới phía bắc Ba Tư như người Hung, Hephthlites, Hung Nô, Scythia và đế chế Kushan_những người áp dụng chiến thuật kiểu du mục "tập kích- rút lui" chỉ nhờ vào sự linh hoạt của các kị xạ. Sau này, lực lượng vệ binh Pushtigban hình thành, kế thừa ưu điểm của binh đoàn Savaran để chống lại loại hình chiến thuật mới của La Mã.
Cataphracts trong các nền văn minh
Hy Lạp
Thời kỳ Hy Lạp cổ điển
Người Hy Lạp lần đầu tiên đụng độ với các cataphract khi liên minh Ionia nổi dậy chống lại sự cai trị của đế chế Achaemenid ở Tiểu Á, dẫn đến sự thất bại hoàn toàn của liên minh này. Vài năm sau đó, các thành bang Dorian ở bán đảo Hy Lạp cũng đã đối đầu với lực lượng cataphract phương đông trong cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư khoảng thế kỷ V TCN do người Ba Tư phát động.
Thời kỳ Hy Lạp hóa
Đến thời kỳ Hy Lạp hóa, đế chế Seleucid_nhà nước kế tục từ Alexander Đại Đế ở Tây Á, đã xây dựng lực lượng cataphract của riêng họ. Vương triều này tiếp tục triển khai cataphract trong chiến tranh với Cộng hòa La Mã, nơi mà các cataphratc thể hiện một chút ít ưu thế so với bộ binh đối phương, cụ thể như trận Magnesia (190 TCN) và trận Tigranocerta năm 69 TCN giữa quân đội La Mã do pháp quan Lucullus chỉ huy đối đầu với Tygranes Đại Đế của nhà Seleucid. Nhưng theo Plutarch, ảnh hưởng của cataphract đến nền quân sự thời kỳ Hy Lạp hóa vẫn rất phai nhạt, bởi vì tổ chức của họ còn sơ khai và nhiều hạn chế về mặt chiến thuật khi đối mặt với lính bộ binh có kỷ luật cao hay kị binh nhẹ.
La Mã
Thời kỳ Cộng hòa và Đế quốc La Mã
Người La Mã biết đến cataphract thông qua các cuộc chiến tranh với đế chế Seleucid và người Parthia ở Cận Đông, đặc biệt là sau khi Marcus Licinius Crassus (một đối trọng chính trị của Julius Ceasar vào cuối thời kỳ Cộng hòa) tử trận và mất 35,000 lính La Mã tại trận Carrhae chống lại các cataphract bắn cung của Parthia. Năm 38 TCN, thống chế La Mã Publius Ventidius đã sử dụng lượng lớn lính ném đá có tầm xa đánh bại cataphract Parthia khi họ cố gắng đột kích lên đỉnh đồi, giúp người La Mã thu hồi các tỉnh đã mất sau trận Carrhae. Hàng loạt các cuộc giao tranh nổ ra giữa hai đế chế trong suốt vài thế kỷ sau đó, như chiến dịch chinh phạt Parthia của Mark Antony, trận Cổng Cillicia, trận Gindarus, và cuối cùng là kết cục đẫm máu tại trận Nisibis (217), với chiến thắng quyết định cho Parthia, buộc hoàng đế La Mã lúc ấy là Macrinus buộc phải cầu hòa với đối phương. Sau thất bại tại Nisibis, cataphract đã thể hiện sự vượt trội đối với bộ binh lẫn kị binh La Mã. Đến đầu thế kỷ IV, đế quốc La Mã đã chiêu mộ một số binh đoàn đánh thuê cataphract (gọi là Notitia Dignitatum), gồm kị binh Sarmatia đến từ khu vực sông Danube, chủ yếu để đối đấu với chính các đồng hương của họ khi một số bộ lạc Sarmatia gây sức ép lên biên giới phía đông bắc của đế chế La Mã.
Tuy nhiên, lại có những ghi chép sớm nhất về sự hiện diện của kị binh cataphract (equites cataphractarii) trong hàng ngũ La Mã (theo sử gia Polybius) là dưới triều đại của hoàng đế Hadrian (117-138). Vào triều đại hoàng đế Augustus, nhà địa lý Hy Lạp Strabo coi cataphract như binh chủng đặc trưng của người Armenia, Albania và Ba Tư. Theo sử gia Ammianus Marcellinus, đơn vị cataphract tốt nhất Ba Tư (hay vệ binh Pushtigban) có thể húc đổ 2 lính bộ binh La Mã trong một lần đột kích. Cataphract bắn cung cũng phát triển như là một đối trọng của các đơn vị La Mã lúc bấy giờ đã trở nên cơ động và khéo léo hơn.
Những cuộc xung đột giữa Ba Tư Sassanid và La Mã lúc này cũng kèm theo những cuộc đối đầu cân tài cân sức giữa các cataphract phương Đông và phương Tây. Một ví von của nhà sử học Procopius, trong chiến tranh Sassanid-La Mã dưới thời Justinian I (527-565), Cataphract Ba Tư có khả năng bắn tên cực nhanh, còn các Cataphract La Mã bắn chậm hơn nhiều nhưng chính xác hơn, có thể bắn tên qua trái hay phải, bắn khi truy kích hay bắn ra sau lưng, và phát bắn rất mạnh và uy lực dù chậm.
Thời kỳ Byzantine
Theo các sử liệu còn sót lại, trận đánh cuối cùng có sự hiện diện của cataphract đế quốc Byzantine (Đông La Mã) diễn ra năm 970 và tài liệu gần đây nhất là một bản ghi chép về một đơn vị cataphract đồn trú vào năm 1001, trước khi biến mất hoàn toàn. Cataphract Byzantine bắt đầu xuống dốc vào cuối thế kỷ thứ 11, cùng lúc với sự suy sụp của vương triều Makedonia ở Byzantine. Lúc này, trước sức tấn công mãnh liệt của người Đột Quyết (Turks), gần như toàn bộ lãnh thổ Byzantine ở vùng Tiểu Á đã bị mất trắng. Điều này đồng nghĩa với việc đế quốc bị mất đi những nguồn cung ứng quan trọng về vật tư và trang bị cho những đội cataphract (nhất là nguồn ngựa giống tốt ở vùng Anatolia). Có thể cataphract đã có một sự phục hồi nhất định trong thời kỳ thịnh đạt của vuơng triều Komnenos (1081-1180),[3] nhưng rõ ràng nó đã bị các loại kỵ binh khác lấn át và không còn giữ vai trò trọng yếu như trước đây. Với lại, các đơn vị kỵ binh nặng của Byzantine lúc này chủ yếu là các Latinkon (số ít Latinikoi)_những lính đánh thuê phương Tây có phong cách chiến đấu theo kiểu Châu Âu. Hoàng đế Manuel I Komnenos (1148-1180) đã trang bị cho các đơn vị kỵ binh tinh nhuệ theo chuẩn của các hiệp sĩ Tây Âu chứ không theo truyền thống cataphract nữa.
Trung Hoa
Trong tiếng Trung, "cataphract" trong các văn bản cổ Trung Quốc được gọi là khải mã (kaima, 鎧馬) hay thiết kị (tieqi, 鐵騎). Học giả đầu tiên sử dụng cụm từ "cataphract" cho kị binh hạng nặng Trung Quốc là Chris Peers.
Lực lượng thiết kị đầu tiên xuất hiện dưới thời nhà Tần thông qua các phát kiến khảo cổ, mặc dù giáp trụ thời đó làm bằng da thú thay vì kim loại. Đến thời Tây Hán, một bản ghi chép được cho là sổ sách quân nhu của triều đình, có đề cập đến hơn 5,000 bộ giáp trụ cho ngựa chiến[4]. Thiết kị thực thụ với giáp trụ bằng kim loại cũng được áp dụng nhưng không phổ biến dưới thời Tam Quốc, vì loại kị binh này rất khó để điều khiển linh hoạt. Đến đầu thế kỷ IV, người Tiên Ti ở Liêu Ninh và Nội Mông bắt đầu sử dụng thiết ki một cách phổ biến, dẫn đến sự hình thành những lực lượng cataphract chính quy đầu tiên ở Đông Á trong quân đội Trung Hoa thời nhà Tấn (265-420) đến thời Nam-Bắc triều, qua đó mở ra thời hoàng kim của binh chủng này trên chiến trường Trung Nguyên. Theo Tấn thư, sau khi đánh bại được tộc Tiên Ti, tướng Thạch Lặc đã lấy được 5,000 giáp ngựa. Đến năm 316, ông lại thu gom được thêm 10,000 bộ giáp khi đánh bại tộc Thác Bạt Tiên Ti_những nhà sáng lập của vương triều Bắc Ngụy.
Thiết kị được sử dụng rộng rãi dưới triều Bắc Nguỵ, và dần dần Nam triều cũng phát triển lực lượng này. Sự phát triển trở nên phổ cập tới múc đây là hình mẫu cho quân đội Bắc Trung Quốc trong suốt thời kì này, bằng chứng là có rất nhiều tượng gốm mang hình kị binh hạng nặng được phát hiện trong các lăng mộ triều Bắc Nguỵ, Đông Nguỵ và Bắc Chu. Đối với Nam triều, do không thể tiếp cận trực tiếp với thảo nguyên như thời Hán, kị binh nói chung và thiết kị nói riêng trở thành thứ yếu trong quân đội. Trên thực tế, ngựa chỉ được vận chuyển từ Cam Túc qua Tứ Xuyên để xuống Giang Nam trong thời kì hoà hoãn giữa hai miền Nam-Bắc, nhưng con đường rất trắc trở và nguy hiểm cùng với chi phí vận chuyển khá cao nên thiết kị Nam triều tỏ ra yếu thế hơn Bắc triều cả về quân số lẫn sức chiến đấu.
Thiết kị tiếp tục được áp dụng dưới thời Tùy-Đường, nhưng lúc này dân thường không được phép sở hữu giáp trụ của ngựa, khiến việc sản xuất loại trang bị này trở thành độc quyền của triều đình. Khi loạn An-Sử nổ ra, lực lượng này tiếp tục được tất cả các phe sử dụng như binh chủng chủ chốt trong các đại chiến và tiếp tục được trọng dụng đến tận khi nhà Đường sụp đổ. Vào thời Ngũ đại-Thập quốc, thiết kị binh vẫn cho thấy tầm quan trọng. Sau đó, nhà Tống cũng tiếp tục phát triển các đơn vị thiết kị trong chiến tranh với các quốc gia láng giếng như Liêu, Tây Hạ, Kim, và ngược lại, các đế chế du mục này lại xây dựng lực lượng thiết kị riêng, điển hình như các đội ''thiết đầu ưng'' ở Kim và Tây Hạ, thậm chí chiếm ưu thế trước quân Tống nhờ các thảo nguyên cung cấp lượng cỏ tuơi dồi dào cho ngựa, cũng như sở hữu lượng lớn con giống (thảo nguyên Bắc-Trung Á được xem là nơi có nhiều ngựa nhất thế giới).
Đến thế kỷ XIII, đế quốc Mông Cổ bành trướng khắp thế giới bằng sự thống trị của kị binh nhẹ bắn cung, để rồi khi nhà Nguyên, quốc gia kế tục của họ thống nhất Trung Quốc, lực lượng cataphract dần bị quên lãng, mặc dù vẫn được sử dụng trong biên chế quân đội Nguyên Mông. Những đội thiết kị cuối cùng ở Trung Quốc cuối cùng biến mất sau sự sụp đổ của nhà Nguyên năm 1368.
Ngoài giáp ngựa ra, áo giáp người cưỡi ngựa cũng là điểm đáng chú ý. Tựu trung, có hai loại giáp cho kị binh: Minh Quang giáp (Mingguang jia) và Lưỡng Đương giáp (Liangdiang jia). Cả hai cũng được sử dụng bởi bộ binh Bắc triều, nhưng loại đầu có lẽ chỉ được sử dụng bởi sĩ quan cấp cao. Một đặc điểm nữa đáng chú ý là cataphract Trung Hoa có một nhúm lông dài (plume) về phía sau yên ngựa. Một số học giả cho rằng đây có thể dùng làm tín hiệu liên lạc giữa các đội kị binh với nhau (thuyết này chủ yếu dựa vào mô tả trận Phì Thủy nổi tiếng).
Nhật Bản
Khoảng thế kỷ VII, ngựa chiến Nhật Bản mặc giáp thuộc lớp lamellar_loại giáp trụ thậm chí được trang bị cho ngựa của samurai sau này, được gọi là yoroi. Loại giáp samurai nguyên thủy này được làm từ các tấm vảy cá được làm bằng sắt hoặc da, gọi là kozane, được nối với nhau thành các dải nhỏ. Các dải vảy cá này được sơn mài để tránh bị nước làm rỉ sét (đối với vật liệu bằng sắt), trước khi được cố định với nhau bằng các sợi tơ hoặc da thú, tạo thành một bộ giáp ngực hoàn chỉnh (nặng đến 66 lbs).
Trong chiến đấu, cataphract Nhật Bản sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau, nhưng phổ biến nhất là cung (yumi) và thương (yari và naginata). Cung yumi chủ yếu làm bằng tre, có tầm bắn từ 50-100m. Lễ hội Shinto (còn được gọi là yabusame, 流鏑馬) tổ chức các cuộc thi bắn cung trên lưng ngựa của Nhật Bản, vốn bắt nguồn từ truyền thống huấn luyện các kị sĩ trở thành cataphract kị xạ. Thương naginata được sử dụng trong đợt xung kích, không chỉ cho cataphract mà cả bộ binh nặng, vì hiệu quả vượt trội hơn sử dụng kiếm.
Việt Nam
Thời Lý-Trần
Dựa trên các hiện vật giáp trụ, mũ, khiên bằng đồng của kị binh thời nhà Trần, đã có giả thiết về sự tồn tại của lực lượng thiết kị (hay còn được gọi là cataphract) ở Việt Nam dưới thời kỳ Lý-Trần thậm chí đến nhà Hậu Lê sau này[5]. Các quân trang này có thiết kế tinh xảo và độ bền cao, giúp chúng gần như nguyên vẹn qua hàng thế kỷ, chứng tỏ chi phí gia công của chúng cực kỳ đắt đỏ. Mặt khác, binh chủng thiết kị có chế độ huấn luyện hà khắc bậc nhất, thể chất tốt nhất, tính kỉ luật cao nhất trong quân đội. Vì vậy, hầu như chỉ có lực lượng cấm quân triều đình và gia binh của các đại quý tộc phù hợp để xây dựng lực lượng thiết kị phục vụ trong chiến đấu.
Có giả thiết cho rằng, thượng tướng Trần Quang Khải của nhà Trần đã chỉ huy lực lượng thiết kị Thánh Dực quân công phá hoàn toàn đội hình kị binh Mông Cổ tại trận Chương Dương độ (1288), trước khi phá hoại căn cứ thủy quân, kho lương của họ. Giả thiết ấy là có cơ sở, vì Thánh Dực quân là lực lượng cấm vệ hộ giá hoàng gia nhà Trần. Với cương vị thượng tướng quân (chỉ đứng sau chức vụ nguyên soái của Trần Hưng Đạo), Trần Quang Khải có thể được vua Trần Nhân Tông giao cho chỉ huy lực lượng tinh nhuệ này để nhanh chóng giành chiến thắng quyết định, đoạt lại kinh thành Thăng Long. Nếu đúng như vậy, thiết kị Đại Việt trở thành là đối trọng đáng gớm nhất với kị binh Mông Cổ trên chiến trường phương nam.
Tuy nhiên, do phải chiến đấu trong tình trạng nặng nhọc, căng thẳng, nên thiết kị binh dễ dàng xuống sức hơn, đặc biệt vào những ngày hè oi ả ở Đông Nam Á, khiến cho cả kị sĩ lẫn ngựa chiến đều mệt mỏi vì mất nhiều nước. Cho nên, thiết kị chỉ phát huy hiệu quả trong các cuộc tiến công ngắn hạn có tính chất quyết định và có sự bọc lót tốt từ các phi đội kị binh nhẹ hơn.
Ngoài ra, giới nghiên cứu cho rằng giáp ngựa ở Đại Việt làm bằng tre hoặc nứa, vừa đảm bảo sự bền chắc, vừa giúp ngựa chiến có thể di chuyển dễ dàng nhờ độ đàn hồi cao hơn các loại gỗ khác.
Thời Hậu Lê
Ảnh hưởng
Trên phim ảnh và trò chơi
Trong loại trò chơi chiến thuật Rome: Total War, cataphract là đơn vị kỵ binh là mạnh nhất game. Ở bản gốc, cataphract được đào tạo bởi phe Parthia, phe Armenia. phe Pontus cũng có một đơn vị gần giống là kị binh Cappadocia. Ở bản mở rộng Barbarian Invansion, đế quốc Sassanid sở hữu các đơn vị clibanarius và cataphractius mạnh nhất, tiếp đó là đế quốc Đông La Mã. Cataphract được đánh giá là có sức tấn công yếu nhưng phòng thủ cực mạnh và có chỉ số "đột kích" (charging) rất cao.
Trong Medieval: Total War, Byzantine, Nga và các quốc gia Hồi giáo có thể đào tạo được các đội catapharct hoặc các đơn vị kỵ binh có trang bị và chiến thuật gần giống. Cataphract lần này có các chỉ số công thủ cao hơn hẳn các kỵ binh nặng Tây Âu, nhưng charging hơi thấp. Điều đáng tiếc là kataphractoi của Byzantine chỉ có sức mạnh trung bình khá.
Trong phim Truyền thuyết Jumong, đội kỵ binh áo giáp của nhà Hán cũng có những trang bị như cataphract. Trong phim Hải thần thì cũng có xuất hiện những bức vẽ của các thiết kỵ binh dạng cataphract.
Chú thích
^Theo giải nghĩa của một số cộng tác viên bản xứ Hy Lạp
^Theo sử sách, clibanarii sử dụng kiếm thẳng của Sarmatia và kiếm cong đến từ phương Đông
^theo J. Birkenmeier trong "The development of the Komnenian army: 1081-1180"