Giáo là một loại vũ khí cận chiến gồm một trục (thường bằng gỗ) với một đầu nhọn. Mũi giáo có thể là một đầu của trục được mài nhọn (như giáo lửa cứng - fire hardened spear), hoặc nó có thể được làm bằng vật liệu bền hơn (như đá lửa, đá vỏ chai, sắt, thép hoặc đồng) và được gắn chặt vào trục. Thiết kế phổ biến nhất để săn bắn hoặc chiến đấu với giáo từ thời cổ đại là kết hợp một mũi kim loại hình tam giác, hình thoi hoặc hình chiếc lá. Mũi của loại giáo dùng để đánh cá thường có gai hoặc cạnh răng cưa.
Giáo có thể được chia làm hai loại: một loại để chọc như một vũ khí cận chiến và một loại để ném như là một vũ khí tầm xa.
Giáo đã được sử dụng trong suốt lịch sử loài người như một công cụ săn bắn và câu cá và làm vũ khí. Cùng với chùy, dao và rìu, giáo là một trong những công cụ sớm nhất và quan trọng nhất được phát triển bởi người cổ đại. Là một vũ khí, giáo có thể được sử dụng bằng một hoặc hai tay. Giáo được sử dụng trong hầu hết mọi cuộc xung đột cho đến thời kỳ hiện đại (khi nó tiếp tục tồn tại dưới dạng lưỡi lê) và có lẽ là vũ khí được sử dụng phổ biến nhất trong lịch sử.[1]
Nguồn gốc
Sản xuất và sử dụng giáo không giới hạn đối với con người mà cũng đã được thực hành bởi tinh tinh phương tây. Người ta đã thấy tinh tinh gần Kesdougou, Senegal làm giáo bằng cách bẻ các cành cây to, tỉa bớt các cành nhỏ và mài nhọn một đầu bằng răng. Loài tinh tinh này sau đó sử dụng giáo để săn galago ngủ trong các hố sâu.
Thời tiền sử
Các bằng chứng khảo cổ học tìm thấy ở Đức ngày nay cho thấy giáo đã được dùng trong săn bắn ít nhất 400,000 năm trước, và một nghiên cứu năm 2012 từ khu Kathu Pan ở Nam Phi cho thấy rằng hominids, có thể là Homo heidelbergensis, có thể đã phát triển công nghệ làm giáo với mũi bằng đá mài nhọn ở Châu Phi vào khoảng 500,000 năm trước. Tuy nhiên, gỗ không được bảo quản tốt và Craig Stanford, một primatologist và giáo sư anthropology tại Đại học Nam California đã gợi ý rằng sự khám phá ra giáo dùng bởi tinh tinh có nghĩa là người tinh khôn có thể đã dùng giáo gỗ trước đó.
Người Neanderthal bắt đầu làm mũi giáo đá từ khoảng 300,000 năm trước đây, và khoảng 250,000 năm trước, giáo gỗ được làm bởi các điểm được nung cứng bằng lửa.
Từ 200,000 năm trước công nguyên, người Trung Paleolithic bắt đầu làm những lưới giáo đá phức tạp với các cạnh mỏng. Các lưỡi giáo đá có thể được cố định trên trục bằng cao su hoặc nhựa thông hoặc bằng các vật liệu kết dính làm bởi gân động vật, dải da hoặc các loại dây dợ có nguồn gốc từ thực vật. Trong thời kì này, có sự khác biệt rõ ràng giữa giáo dùng để ném và giáo dùng trong các cuộc chiến mặt đối mặt. Tới thời kì Magdalenian (15,000 - 9500 BCE), giáo dùng để ném tương tự như atlatl được sử dụng
Trong quân đội
Châu Âu
Đồ cổ kinh điển
Hi Lạp cổ đại
Giáo là vũ khí chính của các chiến binh Homer's lliad. Việc sử dụng một ngọn giáo chọc và hai ngọn giáo ném cũng đựoc đề cập đến. Nó gợi ý rằng hai phong cách chiến đấu đang được đề cập đến; một phong cách sớm, với giáo chọc, có nguồn gốc từ thời Mycenaean khi mà lliad lấy bối cảnh, và một phong cách muộn, với giáo ném, từ thời Homer's sở hữu Archaic.
Trang bị của 1 người lính mang giáo
Lính mang giáo thường mặc một chiếc áo khoác hai ngực(kurtka)với một bảng điều khiển màu ở phía trước(plastron),một dải vải màu(sash),và một chiếc mũ Ba Lan đứng đầu vuông(czapka). Cây thương của họ thường có một lá cờ đuôi én nhỏ(pennon),ngay dưới đầu giáo. Các đồng xu thường được gỡ bỏ hoặc bọc trong một bìa vải trên dịch vụ đang hoạt động. Với tầm bắn và độ chính xác được cải thiện của súng hỏa mai bộ binh và súng trường, cấu hình cao được trình bày bởi lancer với vũ khí dễ thấy của họ được mang theo đã trở thành một vấn đề. Các ułans hoặc uhlans,như lancer được biết đến trong các ngôn ngữ Ba Lan và Đức tương ứng, được đào tạo để hạ thấp thương của họ khi trinh sát trên đỉnh đồi.
Trong chiến đấu
Giáo là một trong những vũ khí cá nhân phổ biến nhất được sử dụng trong thời kỳ đồ đá, và nó vẫn sử dụng như một binh khí quân sự quan trọng và các dụng cụ săn bắn cho đến khi sự ra đời của vũ khí nóng. Giáo có thể được xem như là tổ tiên của vũ khí quân sự như các mâu, Thương, kích, đinh ba, đoản kiếm, thậm chí nó còn ảnh hưởng đến vũ khí quân sự hiện đại ví dụ như súng trường gắn lưỡi lê. Giáo cũng có thể được sử dụng như vũ khí đạn đạo và cận chiến. Giáo được sử dụng chủ yếu để đâm mạnh, người dùng có thể được sử dụng với một hoặc hai tay và nó có xu hướng thiết kế nặng hơn và chắc chắn hơn so với những chiếc lao dùng cho phóng, ném.
Giáo là vũ khí chính của các chiến binh Hy Lạp trong trường ca Iliad của Hómēros. Việc sử dụng cả hai giáo đâm và giáo ném được đề cập. Trong thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên, người Hy Lạp đã phát triển và hình thành một đội hình bộ binh mới, phalanx tức phương trận. Chìa khóa hình thành công đội hình này là bộ binh nặng, được trang bị với một cái khiên lớn tròn, và một cái giáo dài. Đội hình phalanx thống trị chiến tranh giữa các Quốc gia thành bang Hy Lạp trong một thời gian dài. Ở Châu ÂuTrung Cổ. giáo cũng được sử dụng thông dụng đặc biệt là giáo được cải tiến để sử dụng trên lưng ngựa chiến. Đó là môn đấu thương.
Ở Việt Nam thời cổ, Giáo là vũ khí cổ phổ biến nhất được tìm thấy tại Việt Nam cùng với chiếc rìu trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn với nhiều kích thước, hình dạng mũi giáo khác nhau và sau này, giáo là vũ khí phổ biến trang bị cho quân đội trong nhiều triều đại phong kiến. Danh tướng Phạm Ngũ Lão đã có bài Thuật hoài trong đó mỡ đầu bằng câu: "Hoành sóc giang san cáp kỷ thu/Múa giáo giữ non sông đã mấy thu". Ở Trung Quốc giáo với nhiều biến thể như mâu, thương, kích, đinh ba rất thông dụng trong các cuộc chiến tranh thời kỳ phong kiến, đến tận triều Thanh. Nó là một nội dung của Thập bát ban binh khí ở Trung Quốc và ở Việt Nam. Nhiều danh tướng nổi danh với tài đánh giáo.
Ở Nhật Bản, giáo cũng là vũ khí phổ biến cho bộ binh với mũi giáo dài có thể chém được và cán giáo thường làm bằng kim loại. Một số bộ tộc ở châu Phi cũng sử dụng giáo, như người Zulu có thiết kế chiếc giáo ngắn vừa tầm tay nhưng mũi giáo rất to, bè và có thể đâm lẫn chém. Nhiều thổ dân vùng Châu Đại dương cũng có kiểu giáo của họ đó là cây Tao dùng trong cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc. Các bộ lạc bản địa người da đỏ ở châu Mỹ cũng sử dụng giáo như là một vũ khí thông dụng của mình trong săn bắt, chiến đấu và nghi lễ.
Tham khảo
^Weir, William. 50 Weapons That Changed Warfare. The Career Press, 2005, p 12.
Thư mục
Jill D. Pruetz1 and Paco Bertolani, Savanna Chimpanzees, Pan troglodytes verus, Hunt with Tools", Current Biology, ngày 6 tháng 3 năm 2007
Lower Palaeolithic hunting spears from Germany. Hartmut Thieme. Letters to Nature. Nature 385, 807 - 810 (ngày 27 tháng 2 năm 1997); doi:10.1038/385807a0 [1]
Rick Weiss, "Chimps Observed Making Their Own Weapons", The Washington Post, ngày 22 tháng 2 năm 2007
Wymer, John (1982). The Palaeolithic Age. London: Croom Helm. p. 192. ISBN 070992710X.
Webster, T.B.L. (1977). From Mycenae to Homer. London: Methuen. các trang 166–8. ISBN 0416705707. Truy cập 15 Feb 2010.
Hanson, Victor Davis (1999). "Chapter 2: The Rise of the City State and the Invention of Western Warfare". The Wars of the Ancient Greeks. London: Cassell. các trang 42–83. ISBN 0304359823.
Bishop, M.C.; Coulston J.C. (1989). Roman Military Equipment. Princes Risborough: Shire Publications. ISBN 0747800057.
Swanton, M.J. (1973). The Spearheads of the Anglo-Saxon Settlement. London: Royal Archaeological Institute.
Fisher, Andrew (1986). William Wallace. Edinburgh: John Donald. p. 80. ISBN 0859761541.
Verbruggen, J.F. (1997). The Art of Warfare in Western Europe in the Middle Ages (2nd. ed.). Woodbridge: Boydell Press. các trang 184–5. ISBN 0851156304.
Morris, Paul (September 2000). ""We have met Devils!": The Almogavars of James I and Peter III of Catalonia-Aragon". Anistoriton 004. Truy cập 2009-08-04.
Heath, Ian (1993). The Irish Wars 1485-1603. Oxford: Osprey. p. 36. ISBN 9781855322806.
Arnold, Thomas (2001). The Renaissance at War. London: Cassel & Co.. các trang 60–72. ISBN 0304352705.
Nicholson, Helen (2004). Medieval Warfare. Basingstoke: Palgrave MacMillan. các trang 102–3. ISBN 0333763319.
Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!