"Heart Shaker" Phát hành: 11 tháng 12 năm 2017 (2017-12-11)
"Merry & Happy" Phát hành: 22 tháng 12 năm 2017 (2017-12-22)
Twicetagram là album phòng thu đầu tiên của nhóm nhạc nữHàn QuốcTwice. Album được phát hành trực tuyến trên các trang âm nhạc và các cửa hàng vào ngày 30 tháng 10 năm 2017 bởi JYP Entertainment và được phân phối bởi Genie Music. Twicetagram cùng tên tài khoản Instagram chính thức của Twice mà nhóm đã lập vào tháng 7 năm 2015.[2][3]
Ca khúc chủ đề "Likey" được sáng tác bởi Black Eyed Pilseung và Jeon Gun[4]. Đây lần thứ tư nhóm hợp tác với Black Eyed Pilseung. Một số người sáng tác và viết lời đã tham gia vào album này bao gồm các thành viên Hàn Quốc của Twice và cựu thành viên của Wonder Girls, Hyerim, người đồng sáng tác ca khúc thứ tám mang tên "Look at Me".[5]
Phiên bản tái phát hành của Twicetagram mang tên Merry & Happy được phát hành vào ngày 11 tháng 12 năm 2017.
Bối cảnh và phát hành
Vào đầu tháng 9 năm 2017, có thông tin tiết lộ rằng Twice đã quay một video âm nhạc mới ở Vancouver, Canada. Vào ngày 25, JYP Entertainment xác nhận rằng nhóm sẽ phát hành album tiếng Hàn mới vào cuối tháng 10 dù ngày cụ thể vẫn chưa được quyết định.[6][7] Vào ngày 15 tháng 10, một đoạn trailer bất ngờ cho album sắp tới được trình chiếu đến người hâm mộ trong ngày thứ hai buổi fan meeting của nhóm - một lễ kỷ niệm 2 năm ra mắt của nhóm. Chính thức công bố vào ngày hôm sau rằng sự trở lại này dự kiến sẽ được phát hành vào ngày 30 tháng 10 với full album đầu tiên của Twice với tên là Twicetagram và ca khúc chủ đề mang tên "Likey".[8][9] Teaser hình ảnh đầu tiên của nhóm đã được up lên mạng sau bốn ngày.[10][11]
Twicetagram có tất cả 13 bài hát bao gồm một số bài hát do thành viên của Twice viết lời. Hé lộ hai bài hát trong album có tiêu đề "Turtle" (거북이) và "Having You" (널 내게 담아) và phần thuật lại của thành viên Sana trong một ca khúc chưa được tiết lộ lần đầu tiên được công bố vào ngày 20 tháng 10.[12][13][14]
Album cùng với video âm nhạc của ca khúc chủ đề chính thức phát hành vào ngày 30 tháng 10 dưới dạng nhạc số trên các trang web âm nhạc khác nhau trong khi đĩa cứng được phát hành vào ngày hôm sau.[15][16]
Quảng bá
Vào ngày 10 tháng 10 năm 2017, Có thông báo rằng Twice sẽ quay một tập cho Weekly Idol để bắt đầu các hoạt động quy mô đầy đủ cho album.[17]
Trước khi phát hành Twicetagram, Twice đã tổ chức showcase truyền thông cho album tại Yes24 Live Hall ở Gwangjin-gu, Seoul. Sau đó là showcase live được phát qua Naver V Live, sau hai giờ tung album trực tuyến là lần đầu tiên nhóm biểu diễn "Likey" và "Turtle", cũng như các bài hát nổi tiếng trong các album trước của nhóm bao gồm "Cheer Up", "TT", "Knock Knock" và một số bài hát khác.[18][19][20]
Sự đón nhận và diễn biến thương mại
Twicetagram nằm trong danh sách 20 Album Kpop hay nhất năm 2017 theo Billboard. Album đứng ở vị trí số 19 và được miêu tả như "một bộ sưu tập tổng thể các bản hit bubblegum đáng kinh ngạc".[21]
Album và đĩa đơn "Likey" ngay khi ra mắt đã lần lượt đứng đầu cả hai bảng xếp hạng Billboard World Albums và World Digital Song Sales — vị trí số 1 đầu tiên của nhóm, giúp Twice trở thành nghệ sĩ nữ K-pop đầu tiên dẫn đầu cả hai bảng xếp hạng trên. Album cũng tăng hạng trên bảng xếp hạng Heatseekers Albums khi ra mắt ở vị trí thứ 10, cao hơn một hạng so với Signal khi nó đứng ở vị trí thứ 11.[22][23][24]
Album đạt mức 100,000 bản bán ra chỉ trong 3 ngày từ khi phát hành, trở thành album bán chạy nhất của một nhóm nữ K-pop từ năm 2002, và bán được 129,000 bản vào tuần đầu tiên.[25][26][27][a] Đây cũng là album bán chạy nhât của một nhóm nhạc nữ K-pop trong năm 2017 khi bán được 320,389 bản vào cuối năm.[29]
Jeong Ho-hyun – kỹ sư thu âm, sắp đặt mọi nhạc cụ và bàn phím (cho "Turtle" và "You in My Heart")
Earattack – kỹ sư thu âm, sắp đặt mọi nhạc cụ và lập trình máy tính (cho "Missing U" và "Rollin'")
bass (cho "Missing U"), giọng nền (cho "Rollin'") và chỉ đạo (cho "Don't Give Up")
Jeong Gyu-chang – kỹ sư thu âm
Kevin Oppa (mr. cho) – kỹ sư thu âm, nhà sản xuất vocal (cho "Love Line"), lập trình máy tính, piano và chỉnh sửa kỹ thuật số (cho "Jaljayo Good Night")
Frants – kỹ sư thu âm, sắp đặt mọi nhạc cụ và lập trình máy tính (cho "Look at Me")
Lee Tae-seob – kỹ sư hòa âm
Lim Hong-jin – kỹ sư phụ tá thu âm và hòa âm
Staytuned – kỹ sư hòa âm
Yoon Won-kwon – kỹ sư hòa âm
Jossi Ahjussi – kỹ sư hòa âm
Jeon Bu-yeon – kỹ sư phụ tá hòa âm
Bae So-yoon – kỹ sư phụ tá hòa âm
Chris Gehringer – kỹ sư xử lý hậu kỳ
Kwon Nam-woo – kỹ sư phụ tá hòa âm
Naive Production – đạo diễn video
Kim Young-jo – nhà sản xuất điều hành
Yoo Seung-woo – nhà sản xuất điều hành
Choi Pyeong-gang – đồng sản xuất
Jeong Ji-eun at Agency VOTT – nhiếp ảnh gia
Choi Hee-seon at F. Choi – chỉ đạo style
Lim Ji-hyeon at F. Choi – chỉ đạo style
Son Eun-hee at Lulu – chỉ đạo làm tóc
Jeong Nan-hyung at Lulu – chỉ đạo làm tóc
Choi Ji-young at Lulu – chỉ đạo làm tóc
Jo Sang-gi at Lulu – chỉ đạo trang điểm
Jia at Lulu – chỉ đạo trang điểm
Jeon Dal-lae – chỉ đạo trang điểm
Yoon Hee-so – biên đạo múa
Kang Da-sol – biên đạo múa
Freemind Youngjundasom – biên đạo múa
Park Yo-han – biên đạo múa
Yoon Dong-hwan – biên đạo múa
Today Art – in ấn
Rado – sắp đặt mọi nhạc cụ, lập trình máy tính và giọng nền (cho "Likey")
Jihyo của Twice – giọng nền (cho "Likey", "Ding Dong" và "Love Line")
Nayeon của Twice – giọng nền (cho "Likey")
Choi Hoon – bass (cho "Turtle" và "You in My Heart")
Yoon Tae-woong – guitar (cho "Turtle" and "You in My Heart")
Kim Yoon-ji – điệp khúc (cho "Turtle")
Kim Jong-seong – guitar (cho "Missing U")
Nam Joo – giọng nền (cho "Missing U", "FFW" và "Rollin'")
Jeong Yoo-ra at Cassette08 – digital editing (choon "Missing U", "Rollin'" và "Don't Give Up")
^Album phòng thu cuối cùng của S.E.S bán được 360.611 tính đến tháng 3 năm 2002 và bán được 78.740 trong tháng 3 năm 2002. Vì thế, album đó bán được 281.871 bản tính từ ngày phát hành là ngày 14 tháng 2 đến ngày 28 tháng 2 năm 2002.[28]
Chú thích
^“Twicetagram”. Melon (bằng tiếng Hàn). LOEN Entertainment, Inc. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2017.
^“Twicetagram”. Instagram. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2017.
^“March 2002 Statistics”. Recording Industry Association of Korea (bằng tiếng korean). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2004.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
^ ab“2017년 Album Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2018.
^Le Top de la semaine: Top Albums Téléchargés. SNEP Musique (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'édition Phonographique. ngày 3 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)
^“週間 CDアルバムランキング”. Oricon (bằng tiếng Nhật). Oricon News. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017.
^“Five-Music Korea-Japan Album Chart” (bằng tiếng Trung). Five-Music. 2017 [44th Week]. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2017. Để truy cập, chọn tuần và năm tương thích ở góc trái bên dưới
^“五大Year-end chart: 2017”. 5music (bằng tiếng Trung). Five Music. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2017.
^“Gaon Album Chart – Week 50, 2017”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2017.
^“Merry & Happy”. 2017 [50th Week]. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2017. To access, select the indicated week and year in the bottom-left corner
^“올해의 가수 (앨범) 후보자” [Artist of the Year (Album) nominees]. 7th Gaon Chart Music Awards 2017 (bằng tiếng Hàn). KMCIA. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2018.
^“Twicetagram”. iTunes. Apple Inc. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2017.
^“Merry & Happy”. iTunes. Apple Inc. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2017.
^“Merry & Happy”. Naver Music (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2017.