Smile (bài hát của Avril Lavigne)

"Smile"
Đĩa đơn của Avril Lavigne
từ album Goodbye Lullaby
Phát hành6 tháng 5 năm 2011 (2011-05-06)
Thu âm2010;
Maratone Studios
(Stockholm, Thụy Điển)
Thể loạiPop rock, pop punk[1]
Thời lượng3:29
Hãng đĩaRCA
Sáng tácAvril Lavigne, Max Martin, Shellback
Sản xuấtMax Martin, Shellback
Thứ tự đĩa đơn của Avril Lavigne
"What the Hell"
(2011)
"Smile"
(2011)
"Wish You Were Here"
(2011)
Danh sách bài hát của Goodbye Lullaby
Video âm nhạc
"Smile" trên YouTube

"Smile" là tên một bài hát của nữ ca sĩ ghi âm người Canada, Avril Lavigne, bài hát được chọn làm đĩa đơn thứ hai từ album phòng thu thứ tư của cô, Goodbye Lullaby (2011). Được sáng tác bởi Lavigne và sản xuất bởi Max MartinShellback, "Smile" là một bài hát thuộc thể loại nhạc punk pop.[2] Lời của bài hát diễn tả lòng biết ơn của Lavigne đối với một người đặc biệt trong cuộc sống của cô. [2] "Smile" được phát hành vào ngày 11 tháng 4 năm 2011 trên đài phát thanh của Úc, và sau đó đến đài phát thanh của Mỹ vào ngày 17 tháng 5. Bài hát này đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, rằng đây là một "bài hát pop rất ngổ ngáo và hấp dẫn".[3] Video âm nhạc của "Smile", với sự đạo diễn của Shane Drake, được quay vào ngày 21 tháng 4 năm 2011 và được phát hành vào ngày 20 tháng 5. "Smile" đã lọt được vào trong Top 40 của bảng xếp hạng ở Úc, Nhật Bản và New Zealand.

Bối cảnh

Lavigne sáng tác "Smile" cùng với hai nhà sản xuất của bài hát, Max MartinShellback.[3] Nội dung của "Smile" bày tỏ lòng biết ơn của cô ca sĩ đến với một người đặc biệt, người đã giành được trái tim của cô và đã làm cho cô nở nụ cười.[3] Cùng với nhịp trống đập và tiếng guitar điện, Lavigne đã giải thích lý do tại sao hầu hết các chàng trai bình thường sẽ chạy theo một chiều hướng khác, và rồi tự hào vì chàng trai của cô luôn luôn gắn bó cạnh bên.[3] Ban đầu, Lavigne hỏi những người hâm mộ của cô trên Twitter về đĩa đơn tiếp theo từ Goodbye Lullaby, cùng với hai sự lựa chọn giữa "Push" và "Smile".[4] Sau đó, cô thông báo rằng "Smile" sẽ là đĩa đơn thứ hai từ album, mặc dù tin tức cho rằng Lavigne đang chiến đấu để "Push" được phát hành. Hãng ghi âm của cô, RCA Records, thông báo rằng "Smile" dự kiến sẽ được gửi đến đài phát thanh Ba Lan vào tháng 4 năm 2011 cùng với một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Anh, Canada, New Zealand và châu Á.[5] Cô cũng đăng tải một vài bức ảnh hậu trường video âm nhạc của "Smile", được quay vào ngày 21 tháng 4, lên Twitter.

Do việc sử dụng nhiều từ thô tục trong bài hát, nhiều bản chỉnh sửa khác nhau của "Smile" đã được phát hành. Trong bản chỉnh sửa chính thức của bài hát, mà chủ yếu phiên bản này được chơi trên các đài phát thanh, cụm từ "crazy bitch" được thay thế bởi "crazy chick", từ "shit" được loại bỏ, đồng thời câu "You're fucking crazy" cũng được thay thế bởi "You like it crazy". Một bản chỉnh sửa khác cũng giống như trên, nhưng thay vì loại bỏ từ "shit" trong câu "You don't really give a shit", cả câu được chỉnh lại thành "You don't really give it up". Và cuối cùng, phiên bản chỉnh sửa trên iTunes đã loại bỏ hoàn toàn các từ ngữ thô tục ra khỏi bài hát mà không thay thế bất kỳ từ nào, trong đó có cả cụm từ "blacked out". Một số đài phát thanh và các kênh âm nhạc còn loại bỏ cả câu "What did you put in my drink?".

Tiếp nhận

Lavigne biểu diễn tại Florida trong chuyến lưu diễn The Black Star Tour, tháng 5 năm 2011.

Nadine Cheung từ AOL Music đã nhận xét một cách tích cực: "Bài hát mới cho ta thấy những phẩm chất tốt đẹp của Lavigne khi là một ngôi sao nhạc pop, với giai điệu kết hợp đọc-hát cũng như đoạn điệp khúc táo bạo mà cô gái 26 tuổi được biết đến".[6] Andy Greenwald từ tạp chí Entertainment Weekly nói rằng: "Một "Smile" ngổ ngáo, với việc nói về các loại đồ uống và hình săm, đã khôi phục cho Avril vị trí xứng đáng của mình trước Katy PerryKe$ha."[7] Scott Shelter từ Pop Crunch đã chấm bài hát 9 sao (trên tổng số 10 sao), với lời nhận xét: ""Smile" là một bài hát nhạc pop hấp dẫn khác từ Lavigne, người đã ghi được nhiều hit trong suốt gần một thập kỷ nay, nhiều hơn mọi người đã từng dự đoán khi cô ra mắt công chúng trong vai một cô gái dũng cảm với "Complicated" và "Sk8er Boi"."[3] Một phản ứng tích cực khác đến từ biên tập Corner Lewis của Digital Spy, anh đã đánh giá 4 trên tổng số 5 sao.[8] Anh nhận xét rằng trong lời bài hát, cô vẫn duy trì phong cách trẻ trung của một cô nhóc chứ không phải là sự lo lắng của tuổi 26.[8] Marcus Gilmer từ The A.V. Club thì tích cực nhận xét: "Lavigne đã bộc lộ phong cách cũ của mình trong "Smile", thả ra một số câu chửi rủa, khẳng định mình là "một con điên" ("a crazy bitch") và có thể làm "mọi điều mình thích" ("what I want when I feel like it")".[9] Robert Everett-Green từ tờ The Globe and Mail lại nhận xét: ""Smile" muốn chúng ta tin rằng, Lavigne vẫn sẵn sàng để được trở thành một người xấu, hôn nhầm một chàng trai, và thậm chí có thể không gội đầu trong suốt một ngày".[10] Jon Pareles từ tờ The New York Times thì cho rằng: "Trong "Smile", cô đã ném ra bốn chữ cái ấy (l-o-v-e) thông qua một câu chuyện điên cuồng và tình yêu từ cái nhìn đầu tiên".[11]

Diễn biến xếp hạng

Sau khi chính thức được phát hành với vai trò là đĩa đơn tứ hai từ Goodbye Lullaby, "Smile" đã ra mắt trên hai bảng xếp hạng Australian Singles ChartNew Zealand Singles Chart. Ở Úc, bài hát ra mắt tại vị trí thứ 42 vào ngày 2 tháng 5 năm 2011 và sau đó đạt được vị trí cao nhất là 25.[12] "Smile" đã đạt doanh số 80,000 bản kỹ thuật số được tiêu thụ ở Úc. Tại New Zealand, bài hát ra mắt tại vị trí thứ 33 vào ngày 25 tháng 4 năm 2011 và sau đó đạt được vị trí cao nhất là 30. Còn ở Mỹ, "Smile" ra mắt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở vị trí thứ 94 vào tuần lễ ngày 16 tháng 7 năm 2011,[13] và nhảy lên vị trí thứ 68 trong năm tuần. Bài hát đã đạt doanh số 500,000 bản kỹ thuật số ở quốc gia này. Trong khi đó ở Anh, "Smile" chỉ đạt vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng UK Singles Chart là 189, sau buổi biểu diễn của cô trong chương trình Britain's Got Talent, và sau đó rơi ra khỏi bảng xếp hạng này vào tuần kế tiếp, trở thành đĩa đơn có vị trí xếp hạng thấp nhất của Lavigne ở Anh. "Smile" không được phát hành trên đài phát thanh của Anh, Đức và một số quốc gia châu Âu khác.

Biểu diễn trực tiếp

Avril Lavigne biểu diễn "Smile", trong thời gian quảng bá cho album, trên Walmart Soundcheck,[14] trên "2DayFM",[15] và đồng thời trên T4.[16] Cô cũng biểu diễn bài hát này trong chương trình Schlag den Raab của Đức vào ngày 4 tháng 6 năm 2011.[17] "Smile" cũng được thu âm trực tiếp trong buổi biểu diễn của cô trên trang aol.com cho AOL Sessions. Lavigne biểu diễn một bản trộn giữa "Smile" và đĩa đơn trước đó của cô, "What the Hell", trong chương trình Britain's Got Talent của Anh vào ngày 1 tháng 6 năm 2011, và sau đó là chương trình truyền hình Mỹ America's Got Talent mùa thứ 6 vào ngày 13 tháng 7 năm 2011.[18]

Sau đó Lavigne đã bay tới Nhật và biểu diễn "Smile" trong chương trình âm nhạc hàng tuần của kênh TV Asahi, Music Station, vào ngày 3 tháng 2 năm 2012.[19]

Video âm nhạc

Bối cảnh

Video âm nhạc của "Smile" được quay vào ngày 21 tháng 4 năm 2011, dưới sự đạo diễn của Shane Drake. Lavigne sau đó đã đăng tải một số video hậu trường của "Smile" lên trang YouTube của mình. Vào ngày 16 tháng 5 năm 2011, cô đăng tải một video lấy tên "Ready, Set, Smile!".[20] Ngày 17 tháng 5, cô đăng tải một video khác có tên là "Smile & Style".[21] Vào ngày 18 tháng 5, Lavigne đăng tải video thứ ba, "Graffiti Guitar", và video thứ tư, "Avril Lavigne - "Smile" Behind the Scenes" đã đạt được hơn 120,000 lượt xem chỉ trong vòng chưa đầy 24 giờ đồng hồ. Lavigne ra mắt video âm nhạc cho "Smile" vào ngày 18 tháng 5 năm 2011 trên tài khoản VEVO của cô.

Nội dung

"Avril ở đây giống như một nàng thơ vô hình trong sự đổ vỡ của cuộc đời, cô nhìn thấy những mảnh vỡ của trái tim nằm rải rác xung quanh thành phố, những mảnh vỡ bằng thủy tinh. Cô loại bỏ những mảnh vỡ trong cuộc sống của người dân, [...] giúp cho họ thấy được hy vọng thêm một lần nữa."

—Shane Drake (đạo diễn), Smile (Behind the Scenes)[16]

Lavigne biểu diễn "Smile" trong một căn phòng trắng. Trên các bức tường có treo những tấm áp phích và các từ ngữ được phun bằng sơn.

Video bắt đầu với cảnh Lavigne trong một căn phòng trắng. Cô lắc một lọ sơn, và xịt lên màn hình một khuôn mặt cười. Cô trang trí những bức tường xung quanh bằng những tấm áp phích The Black Star Tour và xịt nhiều từ ngữ khác nhau lên tường bằng lọ phun sơn. Lavigne cắm một cây guitar diện màu đỏ vào bộ khuếch đại, và bắt đầu hát những câu hát đầu tiên. Trong một phân cảnh khác, Lavigne bước đi trên những con đường của Thành phố New York. Cô tìm đến những người đang buồn bã và đau khổ, lấy đi những mảnh trái tim tan vỡ bên cạnh họ. Khi cô lấy đi những mảnh thủy tinh ấy, họ bắt đầu cười. Hai phân cảnh Lavigne trong căn phòng màu trắng và trong thành phố được chiếu liên tiếp, xen kẽ nhau trong suốt thời gian của video.[22]

Tiếp nhận

Jeff Lapointe từ MTV News đã có những nhận xét tích cực: "Lavigne đã trở lại với lối trang điểm đậm và phong cách trẻ trung trong một phòng thu mà tự tay cô trang trí, với những bình xịt sơn đầy màu sắc, áp phích và một vài đạo cụ."[23] Lapointe cũng nói rằng video "Smile" là một video "năng động và đáng yêu".[23] Jamie Peck từ MTV Buzzworthly thì nhận xét rằng, Lavigne đang "học cách giải quyết nhiều điều với một phong cách thời trang trưởng thành hơn".[22] Robbie Daw từ Idolator viết rằng Lavigne là "một cô gái thô lỗ nhưng lại có một trái tim vàng!".[24] Daw cũng nhận thấy rằng "cặp-đôi-chia-tay-ở-quán-cafe gợi nhớ tới video "Foolish Beat" của Debbie Gibson vào năm 1988."[24] Một phản ứng tích cực đến từ cây viết của tạp chí Billboard, Jon Blistein, người cho rằng video "Rất đơn giản, ngọt ngào, và không giống như "What the Hell"."[25] Trang web Terra thì lại cho rằng, Avril Lavigne đang bị mắc kẹt ở năm 2000 trong video và rằng "cô ấy đang cố gắng để ăn mặc giống như cô ấy đã từng khi đang ở đỉnh cao với "Complicated"."[26]

Danh sách bài hát

Tải kỹ thuật số trên iTunes[27]
  1. "Smile" (Radio Edit) – 3:29
Tải kỹ thuật số / đĩa CD ở Anh[28]
  1. "Smile" – 3:29
  2. "What the Hell" (Bimbo Jones Remix) – 4:10
  3. "Smile" (music video) – 3:36

Tham gia thực hiện

Nguồn:[29]

Xếp hạng và chứng nhận

Lịch sử phát hành

Quốc gia Ngày Định dạng Hãng đĩa
Úc[44] ngày 11 tháng 4 năm 2011 Đài airplay Sony Music
Na Uy[45] 6 tháng 5 năm 2011 Tải kỹ thuật số
Pháp[27]
Bỉ[46]
Đan Mạch[47]
Phần Lan[48]
Hy Lạp[49]
Ireland[50]
Ý[51]
Luxemburg[52]
Hà Lan[53]
Bồ Đào Nha[54]
Tây Ban Nha[55]
Thụy Điển[56]
Thụy Sĩ[57]
Mỹ[58] 17 tháng 5 năm 2011 Top 40/Mainstream airplay RCA Records
Đức[59] 3 tháng 6 năm 2011 Đĩa CD
Anh[28] 3 tháng 7 năm 2011 Tải kỹ thuật số

Giải thưởng

Năm Giải thưởng Hạng mục Kết quả
2011 EVMA 2011 Video nhạc Alternative Xuất sắc Nhất Đề cử
2012 MuchMusic Video Awards Video Quốc tế của Năm của người Canada Đề cử

Tham khảo

  1. ^ Avril Lavigne: Goodbye Lullaby Review Washington Post Retriev ed 2011-05-19
  2. ^ a b “Smile by Avril Lavigne - Songfacts”. Songfacts. ngày 13 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  3. ^ a b c d e Shelter, Scott (ngày 10 tháng 5 năm 2011). “Avril Lavigne, 'Smile' – Song Review”. Pop Crunch. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  4. ^ “Ok guys... I have a big decision to make today and I want my fans to help me. Do u guys want PUSH or SMILE to be my 2nd single??”. Twitter. Twitter Inc. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2011.
  5. ^ “Avril Lavigne announces new single”. Digital Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2011.
  6. ^ Cheung, Nadine (ngày 4 tháng 5 năm 2011). “Avril Lavigne, 'Smile' -- New Song - AOL Radio Blog”. AOL Music. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  7. ^ Greenwald, Andy (ngày 9 tháng 3 năm 2011). “Goodbye Lullaby (2011) Review”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  8. ^ a b Corner, Lewis (ngày 23 tháng 6 năm 2011). “Avril Lavigne: 'Smile' - Digital Spy Review”. Digital Spy. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2011.
  9. ^ Gilmer, Marcus (ngày 8 tháng 3 năm 2011). “Avril Lavigne: Goodbye Lullaby”. The A.V. Club. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  10. ^ Everett, Robert (ngày 8 tháng 3 năm 2011). “Goodbye Lullaby Review: The Globe and Mail”. The Globe and Mail. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  11. ^ Pareles, Jon (ngày 8 tháng 3 năm 2011). “Critics' Choice: New CDs - Avril Lavigne, R.E.M and more - NYTimes.com”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  12. ^ “Australian-charts.com – Avril Lavigne – Smile”. ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  13. ^ “Chart #1770 – Monday ngày 25 tháng 4 năm 2011: Top 40 Singles Chart”. Recording Industry Association of New Zealand. ngày 25 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  14. ^ “Avril Lavigne: Smile (Live at Walmart Soundcheck)”. YouTube. ngày 9 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2011.
  15. ^ “Smile (live 2DayFm) - Avril Lavigne”. YouTube. ngày 14 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2011.
  16. ^ a b http://www.youtube.com/watch?v=I385v8QfLfo
  17. ^ “Avril Lavigne kommt zu "Schlag den Raab". szene.ag. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  18. ^ Daw, Robbie (ngày 14 tháng 7 năm 2011). “Avril Lavigne's 'Got Talent', Performs "What The Hell" And "Smile". Idolator. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.[liên kết hỏng]
  19. ^ “Performances from February 3rd's 'Music Station'. ngày 3 tháng 2 năm 2012. Tokyohive. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2012.
  20. ^ Lavigne, Avril (ngày 17 tháng 5 năm 2011). “Ready, SET, Smile!”. Twitter Inc. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  21. ^ Lavigne, Avril (ngày 17 tháng 5 năm 2011). “Smile & Style”. Twitter. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  22. ^ a b Peck, Jamie (ngày 16 tháng 7 năm 2011). “New Video: Avril Lavigne, 'Smile'. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2011.
  23. ^ a b Lapointe, Jeff (ngày 23 tháng 5 năm 2011). “Avril get's raw and fun like her glory days of "Let Go" yet can she remain young forever?”. MTV. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.
  24. ^ a b Daw, Robbie (ngày 20 tháng 5 năm 2011). "Smile"! It's Avril Lavigne's New Video”. Idolator. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.[liên kết hỏng]
  25. ^ Blistein, Jon (ngày 20 tháng 5 năm 2011). “Avril Lavigne Gets Warm and Fuzzy in 'Smile' Video”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.
  26. ^ “Avril Lavigne Is Still Trying To Be 'Punk' In Her New 'Smile' Video”. Terra. ngày 20 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.
  27. ^ a b http://itunes.apple.com/fr/album/smile-single/id434598511
  28. ^ a b “Smile - Single: Avril Lavigne: Amazon.co.uk: Music”. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2011.
  29. ^ Avril Lavigne (2011). Smile (single). RCA Records.
  30. ^ "Australian-charts.com – Avril Lavigne – Smile" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2011.
  31. ^ "Austriancharts.at – Avril Lavigne – Smile" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2011.
  32. ^ "Ultratop.be – Avril Lavigne – Smile" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratip.
  33. ^ "Ultratop.be – Avril Lavigne – Smile" (bằng tiếng Pháp). Ultratip.
  34. ^ "Brasil Hot 100 Airplay". Billboard Brasil (Brasil: bpp) (2): 98. July, 2011. ISSN 977-217605400-2
  35. ^ "Avril Lavigne Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  36. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 31. týden 2011. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.
  37. ^ "Musicline.de – Lavigne, Avril Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2011.
  38. ^ "Charts.nz – Avril Lavigne – Smile" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  39. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 29. týden 2011.
  40. ^ http://gaonchart.co.kr/main/section/online/download/list.gaon
  41. ^ “Smile - Avril Lavigne - Billboard Charts”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 123 (23). ngày 25 tháng 6 năm 2011. ISSN 0006-2510. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.
  42. ^ “Chart Highlights: Dance, Alternative Songs & More - ngày 13 tháng 6 năm 2011”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2011.
  43. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2012.
  44. ^ “Australian Media Release Date”. The Music Network. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  45. ^ “Smile - Single”. iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  46. ^ http://itunes.apple.com/be/album/smile-single/id434598511
  47. ^ http://itunes.apple.com/dk/album/smile-single/id434598511
  48. ^ http://itunes.apple.com/fi/album/smile-single/id434598511
  49. ^ http://itunes.apple.com/gr/album/smile-single/id434598511
  50. ^ http://itunes.apple.com/ie/album/smile-single/id434598511
  51. ^ http://itunes.apple.com/it/album/smile-single/id434598511
  52. ^ http://itunes.apple.com/lu/album/smile-single/id434598511
  53. ^ http://itunes.apple.com/nl/album/smile-single/id434598511
  54. ^ http://itunes.apple.com/pt/album/smile-single/id434598511
  55. ^ http://itunes.apple.com/es/album/smile-single/id434598511
  56. ^ http://itunes.apple.com/se/album/smile-single/id434598511
  57. ^ http://itunes.apple.com/ch/album/smile-single/id434598511
  58. ^ “All Access”. All Access. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
  59. ^ “Smile - Single: Avril Lavigne: Amazon.de: Music”. Amazon.de. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2011.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “www.youtube.com-3” được định nghĩa trong <references> có tên “” không có nội dung.

Liên kết ngoài

Read other articles:

British free-to-air television channel Television channel LegendBroadcast areaUnited KingdomIrelandProgrammingPicture format576i 16:9 SDTVOwnershipOwner AMC Networks International UK Paramount Networks UK & Australia HistoryLaunched3 May 2004; 19 years ago (2004-05-03)Former namesThe Horror Channel (2004–2006)Zone Horror (2006–2010) Horror Channel (2010–2022)LinksWebsitewww.legend-tv.co.ukAvailabilityTerrestrialFreeviewChannel 41Streaming mediaVirgin TV AnywhereWat...

 

Constituency in Ghana Walewaleconstituencyfor the Parliament of GhanaDistrictWest Mamprusi DistrictRegionNorth East Region of GhanaCurrent constituencyCreated2021PartyNew Patriotic PartyMPLariba Abudu Walewale is one of the constituencies represented in the Parliament of Ghana. It elects one Member of Parliament (MP) by the [first past the post] / Simple Majority] system of election. Walewale is located in the West Mamprusi Municipal of the North East Region of Ghana. It is the Municipal capi...

 

Eclissi solare del 30 agosto 1924Mappa rappresentativaTipoParziale Gamma1.3123 Magnitudine0.4245 Coordinate eclissi massima71.5°N 172.9°E Orari (UTC)Eclissi massima8:23:00 31 luglio 1924 ← → 24 gennaio 1925 L'Eclissi solare del 30 agosto 1924 è stato un evento astronomico che ha avuto luogo il suddetto giorno attorno alle ore 08:23 UTC.[1] Tale evento ha avuto luogo nell'Asia nord orientale, in gran parte della Groenlandia e in alcune aree circostanti. L'eclissi del 30 agos...

JablanitsaЯбланица Dorp in Bulgarije Situering Oblast Sofia Gemeente Svoge Coördinaten 42° 51′ NB, 23° 33′ OL Algemeen Inwoners (31 december 2020) 95[1] Hoogte 728 m Overig Postcode 2298 Kenteken СО Portaal    Bulgarije Jablanitsa of Jablanica (Bulgaars: Ябланица) is een dorp in het westen van Bulgarije. Het dorp is gelegen in de gemeente Svoge in de oblast Sofia. Het dorp ligt hemelsbreed ongeveer 25 km ten noordoosten van de hoofdstad Sofia...

 

International sporting eventBadminton – Women's singles at the 2015 Pan American GamesVenueAtos Markham Pan Am CentreDatesJuly 11 - July 16Competitors34 from 17 nationsMedalists Michelle Li  Canada Rachel Honderich  Canada Jamie Subandhi  United States Iris Wang  United States«2011 2019» Badminton at the2015 Pan American GamesQualification SinglesmenwomenDoublesmenwomenmixedvte The women's singles badminton event a...

 

American college football season 2022 Rhode Island Rams footballConferenceColonial Athletic AssociationRecord7–4 (5–3 CAA)Head coachJim Fleming (9th season)Offensive coordinatorPatrick Murphy (3rd season)Defensive coordinatorJack Cooper (3rd season)Home stadiumMeade Stadium(capacity: 6,555)Seasons← 20212023 → 2022 Colonial Athletic Association football standings vte Conf Overall Team   W   L     W   L   No. 8 William ...

State park in Missouri, United States Rock Bridge Memorial State ParkRock Bridge in 2006Location in MissouriShow map of MissouriRock Bridge Memorial State Park (the United States)Show map of the United StatesLocationBoone County, Missouri, United StatesCoordinates38°52′44″N 92°18′12″W / 38.87889°N 92.30333°W / 38.87889; -92.30333[1]Area2,273 acres (9.20 km2)[2]Elevation696 ft (212 m)[1]Established1967[3]Governi...

 

يوسف سلمان يوسف يوسف سلمان يوسف في الثلاثينات. معلومات شخصية الميلاد 1901برطلة، الدولة العثمانية الوفاة 14 شباط 1949بغداد،  المملكة العراقية سبب الوفاة شنق  مواطنة العراق  الحياة العملية المدرسة الأم الجامعة الشيوعية لكادحي الشرق  المهنة سياسي  الحزب الحزب الشيو...

 

Indios en Panamá पनामा में भारतीयों (en hindi) indopanameñoPueblo de origenLugar de origen Caribe, Guayana británica,  India (Guyarat)[1]​ y  Pakistán (Sind)Población censal 8.000 hab. (aprox.)[1]​Población estimada 8.000 hab. (estimado)[1]​CulturaIdiomas español panameño, hindi, inglés, entre otras lenguas de la IndiaReligiones Hinduismo, islam,[2]​[3]​ sijismo[1]​Principales asentamientos Ciudad de Panam...

1983 American crime drama film by Brian De Palma ScarfaceTheatrical release posterDirected byBrian De PalmaScreenplay byOliver StoneBased onScarfaceby Armitage TrailScarfaceby Howard HawksProduced byMartin BregmanStarringAl PacinoCinematographyJohn A. AlonzoEdited by Jerry Greenberg David Ray Music byGiorgio MoroderDistributed byUniversal Pictures[1]Release dates December 1, 1983 (1983-12-01) (New York City) December 9, 1983 (1983-12-09) (United S...

 

American baseball player This article uses bare URLs, which are uninformative and vulnerable to link rot. Please consider converting them to full citations to ensure the article remains verifiable and maintains a consistent citation style. Several templates and tools are available to assist in formatting, such as reFill (documentation) and Citation bot (documentation). (August 2022) (Learn how and when to remove this template message) Baseball player Sid FernandezPitcherBorn: (1962-10-12) Oct...

 

بروفاتاس تقسيم إداري البلد اليونان  [1] إحداثيات 41°04′07″N 23°23′25″E / 41.068638888889°N 23.390361111111°E / 41.068638888889; 23.390361111111  السكان التعداد السكاني 1099 (إحصاء السكان) (2011)  معلومات أخرى التوقيت ت ع م+02:00 (توقيت قياسي)،  وت ع م+03:00 (توقيت صيفي)  الرمز البريدي 62100  ال...

2006 French-Belgian comedy film GirlfriendsFilm posterDirected bySylvie AymeWritten by Sylvie Ayme Joanne Giger Produced by Christophe Cervoni Eric Juhérian Mathias Rubin Starring Stéphanie Sokolinski Djena Tsimba Léa Seydoux Anne-Sophie Franck CinematographyYves DahanEdited bySophie ReineProductioncompanies Récifilms Axel Films Scope Pictures Distributed byPathéRelease date 21 June 2006 (2006-06-21) Running time90 minutesCountriesFranceBelgiumLanguageFrenchBudget$4.5 mill...

 

Flattened rice ingredient in the Philippines PinipigPinipig toppings on buko pandan (a drink made from coconut meat, cream, and gulaman cubes flavored with pandan leaves)Place of originPhilippinesMain ingredientsglutinous rice Pinipig is a flattened rice ingredient from the Philippines. It is made of immature grains of glutinous rice pounded until flat before being toasted. It is commonly used as toppings for various desserts in Filipino cuisine, but can also be eaten plain, made into cakes, ...

 

Alice PaulAlice Paul pada tahun 1901Lahir(1885-01-11)11 Januari 1885Moorestown, New JerseyMeninggal9 Juli 1977(1977-07-09) (umur 92)Moorestown Township, New JerseyAlmamaterUniversitas Birmingham, Universitas Pennsylvania, Kampus Swarthmore, Universitas AmerikaPekerjaanSuffragisOrang tuaWilliam Mickle Paul I (1850-1902) Tacie ParryKerabatWillam, Helen, dan Parry Alice Stokes Paul (11 Januari 1885 – 9 Juli 1977) adalah seorang feminis dan aktivis hak asasi wanita Amerika. Sosok Alice Pau...

Military unit Naval StaffMarinstabenCoat of arms of the Swedish Naval Staff.Active1907–1994, 2019–presentCountrySwedenAllegianceSwedish Armed ForcesBranchSwedish NavyTypeStaffRoleOperational, territorial and tactical operationsGarrison/HQMusköMarchFlottans paradmarsch (Wagner)[1]CommandersChief of StaffCapt (N) Håkan NilssonMilitary unit Naval Staff[2] (Swedish: Marinstaben, MS) is the staff of the Chief of the Swedish Navy. Established in 1907, it originated from the Fl...

 

У этого термина существуют и другие значения, см. Старый Оскол (значения). Б-262 «Старый Оскол» Служба  Россия Назван в честь г. Старый Оскол Класс и тип судна Многоцелевая ДЭПЛ Классификация НАТО Improved Kilo Оператор  Россия Изготовитель Адмиралтейские верфи Проект проек...

 

School in Republic of IrelandClonkeen CollegeColáiste Chluain ChaoinLocationBlackrock, DublinRepublic of IrelandCoordinates53°16′12″N 6°09′26″W / 53.269908°N 6.157162°W / 53.269908; -6.157162InformationMottoTada Gan Iarracht(Irish: 'Nothing without Effort')Established1965PrincipalEdward MellyNumber of students550Colour(s)  Religious orderChristian BrothersWebsiteclonkeencollege.ie Clonkeen College is a Christian Brothers secondary school for boys...

Questa voce sull'argomento calciatori sauditi è solo un abbozzo. Contribuisci a migliorarla secondo le convenzioni di Wikipedia. Segui i suggerimenti del progetto di riferimento. Ibrahim Ghaleb Nazionalità  Arabia Saudita Altezza 174 cm Peso 62 kg Calcio Ruolo Centrocampista Squadra  Al-Faisaly Carriera Giovanili 2006-2008 Al-Nassr Squadre di club1 2008-2019 Al-Nassr182 (7)2019- Al-Faisaly0 (0) Nazionale 2010- Arabia Saudita20 (0) 1 I due numeri indicano le pre...

 

Рупор (нід. roeper, від roepen — кричати)  — труба, за допомогою якої підсилюють гучність звуку або концентрують у необхідному напрямку звукову або електромагнітну енергію. Акустичні рупори застосовують головним чином у рупорних гучномовцях. Рупори, яким підсилюють голо...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!