Môi trường sống của S. coruscum là trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 100 m.[1] Chúng thường được quan sát trên nền cát hoặc nền đáy có san hô chết vào ban đêm, tập trung ở rạn san hô vào ban ngày.[5]
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. coruscum là 15 cm.[6] Loài này màu đỏ, trừ vùng bụng trắng. Hai bên thân có các hàng sọc trắng. Vây lưng mềm, vây hậu môn và đuôi màu đỏ, trong mờ. Gai vây lưng màu đỏ, chóp gai trắng, dọc gốc các màng gai có một đốm trắng tạo thành hàng. Có một đốm đen lớn trên màng của 3 gai đầu tiên.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 11–13; Số gai ở vây hậu môn: 4 (gai thứ 3 dài nhất); Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 12–13; Số vảy đường bên: 41–45.[7]
Sinh thái
Thức ăn của S. coruscum chủ yếu là tôm, nhưng cũng ăn cả cua.[5]
^Christopher Scharpf biên tập (2019). “Order Holocentriformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
^Dornburg, Alex; Moore, Jon A.; Webster, Rachel; Warren, Dan L.; Brandley, Matthew C.; Iglesias, Teresa L.; Wainwright, Peter C.; Near, Thomas J. (2012). “Molecular phylogenetics of squirrelfishes and soldierfishes (Teleostei: Beryciformes: Holocentridae): reconciling more than 100 years of taxonomic confusion”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 65 (2): 727–738. doi:10.1016/j.ympev.2012.07.020. ISSN1095-9513. PMID22884866.
^ abR. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Holocentrum coruscum”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2023.
^ abW. D. Anderson (2002). “Lutjanidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter (biên tập). The living marine resources of the Western Central Atlantic. Volume 2 (part 1). Roma: FAO. tr. 1201. ISBN92-5-104826-6.
^D. Ross Robertson & J. Van Tassell (2019). “Species: Neoniphon coruscum, Reef squirrelfish”. Shorefishes of the Greater Caribbean: online information system. Smithsonian Tropical Research Institute.