Tình bạn thân thiết với Hoa Kỳ cũng là một vấn đề chính sách đối ngoại của Israel trong nhiều thập kỷ. Từ khi thành lập Nhà nước Israel năm 1948 cho đến Cách mạng Iran và sự sụp đổ của vương triều Pahlavi năm 1979, Israel và Iran đã duy trì mối quan hệ chặt chẽ. Iran là quốc gia đa số Hồi giáo thứ hai công nhận Israel là quốc gia có chủ quyền sau Thổ Nhĩ Kỳ.[3] Vào giữa thế kỷ 20, Israel đã điều hành các chương trình giáo dục và viện trợ nước ngoài rộng lớn ở Châu Phi, cử các chuyên gia về nông nghiệp, quản lý nước và chăm sóc sức khỏe.[4]Trung Quốc là một trong số ít các quốc gia trên thế giới đồng thời duy trì mối quan hệ nồng ấm với cả Israel và thế giới Hồi giáo,[5] và vẫn là một điểm mấu chốt trong chính sách đối ngoại của Israel do ảnh hưởng toàn cầu của nó, tích hợp với quản lý kinh tế thực dụng của Israel, sự ổn định chính trị, cũng như tầm quan trọng chiến lược khu vực của nó ở Trung Đông.[6][7][8]
Trong những năm 2000, Bộ Ngoại giao nước này cảnh báo rằng ảnh hưởng ngày càng tăng của EU sẽ cô lập hơn nữa Israel trong các vấn đề toàn cầu.[9][10] Trước một loạt các rạn nứt ngoại giao với Thổ Nhĩ Kỳ và sự trỗi dậy của Huynh đệ Hồi giáo ở Ai Cập năm 2011, Israel ngày càng có mối quan hệ không thân thiện với các quốc gia này trong vài năm trước khi mọi thứ được cải thiện.[11] Trong cùng khoảng thời gian đó, quan hệ của Israel với nhiều quốc gia ở châu Âu bao gồm Hy Lạp và Síp trong bối cảnh Tam giác năng lượng và ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ, đã được tăng cường, chủ yếu dựa trên sự tăng trưởng của nền kinh tế công nghệ cao của Israel.[12] Mối quan hệ của Israel với Ai Cập đã được cải thiện kể từ khi Huynh đệ Hồi giáo bị loại khỏi quyền lực ở nước này, trong khi mối quan hệ với Thổ Nhĩ Kỳ là không đồng đều kể từ năm 2010, nhưng ít ảm đạm hơn thời điểm đó.
^United States Congress (ngày 5 tháng 6 năm 2008). “H. RES. 1249”(PDF). Since the publication of this document, Maldives has recognized Israel. On ngày 20 tháng 7 năm 2016, relations were re-established between Israel and Guinea.
^“Turkey and Israel”. Smi.uib.no. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2010.
^Leslie Susser (ngày 25 tháng 3 năm 2009). “Israel-Europe ties showing strains”. Jewish Telegraphic Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
^Daniel Bar-Elli. “Biennial Report 2006–2007”(PDF). Israeli National Commission for UNESCO. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2010.
^תפקידי הוועד הישראלי לאונסקו [Functions of the Israeli National Commission for UNESCO] (bằng tiếng Do Thái). Israeli National Commission for UNESCO. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2010.
^האיחוד האירופי [European Union] (bằng tiếng Do Thái). Israeli Ministry of Science & Technology. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2010.
^אירגונים בינלאומיים [International Organizations] (bằng tiếng Do Thái). Israeli Ministry of Science & Technology. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2010.