Các bậc phân loại chính của sinh vật là: vực, giới, ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài. Bảng phân loại này thuộc về loài cáo đỏ[39] (Vulpes vulpes),[40] loài này được đặt tên bởi Carl Linnaeus vào năm 1758[41]Một số loài động vật trên cạn
†Funisia (Mối quan hệ của loài này với các ngành khác chưa được biết đến, nhưng có thể chúng thuộc ngành Porifera, ngành Cnidaria (Thích ty bào) hoặc các ngành động vật đa bào có hình thái tương tự bọt biển.)
Các bậc phân loại chínhCarl Linnaeus (23 tháng 5 năm 1707 - 10 tháng 1 năm 1778)[57][58] và ông có mệnh danh là Hoàng tử của giới thực vật học hay Cha đẻ của ngành phân loại học hiện đại.
Vào thế kỷ 18, Carl Linnaeus, đã đề xuất hệ thống phân loại thứ bậc cho các loài sinh vật đã biết. Trong hệ thống này, các loài có các đặc điểm giống nhau thì phân loại vào cùng một nhóm gọi là chi. Hơn nữa, các chi có đặc điểm giống nhau thì lại đặt vào cùng một họ. Việc phân loại này cứ tiếp tục cho đến khi các loài này tập hợp lại với nhau thành các nhóm được phân loại vào thứ bậc cao nhất.[59] Carl Linnæus là người đặt nền móng cho hệ thống phân loại sinh học hiện đại này[60][61] và là cha đẻ của hệ thống phân loại hiện đại ngày nay.[62] Đến nay, hệ thống phân loại sinh học hiện đại có 8 bậc phân loại chính: vực, ngành, giới, lớp, bộ, họ, chi, loài.[59][63][64]
Các quy định, đặc điểm phân loại động vật và danh pháp động vật
Giữa nhiều các tên gọi thông thường phổ biến như báo sư tử, sư tử núi, báo núi hay báo puma,... tên khoa học của loài này là Puma concolor
Tên thông thường và danh pháp khoa học
Tên thường dùng cho các loài thường không rõ ràng chính xác: "mèo" có thể là mèo nhà Felis catus hoặc tất cả những loài trong Họ Mèo Felidae. Các tên này cũng thay đổi tùy theo ngôn ngữ hay địa phương: ví dụ trường hợp báo puma, báo sư tử, báo núi,... đều chỉ về loài Puma concolor mà ngay từ "báo" cũng có thể liên tưởng đến báo đốmPanthera onca ở châu Mỹ Latinh hay báo hoa mai (Panthera pardus) tại châu Phi và châu Á. Ngược lại, tên khoa học hay danh pháp khoa học của mỗi loài sẽ là duy nhất và phổ quát khắp nơi, gồm hai phần: tên chi như Puma, và tên cụ thể như concolor.[66][67]
Một loài được đặt tên phân loại khi một mẫu chuẩn được mô tả chính thức, được gán một tên khoa học duy nhất trong một ấn phẩm. Mô tả loài thường cung cấp các phương tiện để xác định loài mới, phân biệt với các loài khác đã được mô tả trước đó và các loài có liên quan hoặc dễ gây nhầm lẫn. Đồng thời cung cấp tên được công bố hợp lệ (trong thực vật học) hoặc tên dùng được (trong động vật học) khi chấp nhận xuất bản. Mẫu chuẩn thường được lưu giữ trong kho lưu trữ lâu dài, thường là bộ sưu tập nghiên cứu của bảo tàng hoặc trường đại học lớn, cho phép xác minh độc lập và là phương tiện để so sánh mẫu vật.[68][69][70] Theo Bộ danh pháp Động vật học Quốc tế khuyến nghị những người mô tả loài mới chọn tên "thích hợp, ngắn gọn, thuận tai, dễ nhớ và không gây xúc phạm".[71]
Tên viết tắt
Sách báo đôi lúc không viết đủ định danh loài mà dùng từ viết tắt như "sp." ở số ít hoặc "spp." (viết tắt của species pluralis tiếng Latinh nghĩa "nhiều loài"), ví dụ như "Canis sp.". Việc này áp dụng khi một số cá thể chắc chắn thuộc một chi cụ thể nhưng không chắc thuộc loài nào, như thường thấy trong cổ sinh vật học.[72]
Tác giả cũng có thể dùng "spp." làm cách diễn đạt ngắn gọn về vấn đề áp dụng cho nhiều loài nhưng không phải tất cả trong cùng một chi. Còn nếu muốn bày tỏ rằng áp dụng cho tất cả loài trong một chi thì chỉ dùng tên chi mà không có tên loài. Tên chi và loài thường được in nghiêng nhưng chữ viết tắt như "sp." không nên in nghiêng.[72]
Khi định danh một loài không rõ, có thể dùng "cf." (confer) trước tên loài để chỉ rằng cần thêm thông tin xác nhận. Các chữ viết tắt "nr." (near) hoặc "aff." (affine) có thể được dùng khi định danh chưa rõ nhưng giống với loài được đề cập sau.[72]
Mã nhận dạng
Với sự gia tăng của cơ sở dữ liệu trực tuyến, mã nhận dạng các loài đã được khởi tạo và xác định, bao gồm:
Bách khoa toàn thư Kyoto về gen và bộ gen (Kyoto Encyclopedia of Genes and Genome - KEGG) sử dụng mã ba hoặc bốn chữ cái cho một số loài hạn chế nhất định; ví dụ H. sapiens có mã đơn giản là hsa.[74]
UniProt sử dụng "hệ thống dễ nhớ" không quá năm ký tự chữ và số, ví dụ: HUMAN cho H. sapiens.[75]
Việc đặt tên cho một loài cụ thể, hay cả chi (và đơn vị phân loại cao hơn) chứa loài đó, là giả thuyết về mối quan hệ tiến hóa và khả năng phân biệt các loài trong nhóm sinh vật đó. Khi có thêm thông tin sẽ có thể chứng minh hoặc bác bỏ giả thuyết. Đôi lúc đặc biệt là trước kia khi còn khó khăn trong trao đổi thông tin, các nhà phân loại học làm việc riêng rẽ nên có thể đặt hai tên khác nhau mà sau này lại xác định đó lại cùng một loài. Khi đó, tên loài đặt trước thường được ưu tiên để giữ lại, còn các tên đặt sau coi là Danh pháp đồng nghĩa. Ngược lại cũng có khi một đơn vị phân loại phải tách thành các đơn vị khác. Việc gộp hay tách tùy thuộc vào cách tiếp cận cá nhân chỉ ra khác biệt hoặc điểm chung giữa các sinh vật.[72][77][78]
Sensu stricto và sensu lato
Bộ mã danh pháp như Bộ danh pháp Động vật học Quốc tế (International Code of Zoological Nomenclature - ICZN) và Bộ danh pháp Quốc tế về tảo, nấm và thực vật (International Code of Nomenclature for algae, fungi, and plants - ICN) chỉ hướng dẫn về việc đặt tên mà không đưa ra quy tắc để xác định ranh giới loài. Ranh giới loài có thể thay đổi dựa trên các nghiên cứu, nghĩa là định nghĩa loài cũng có thể thay đổi dựa trên bằng chứng mới. Định nghĩa ranh giới dùng để phân biệt các loài, tên loài có thể mang nghĩa sensu stricto (s.s. - "theo nghĩa hẹp") theo cách chính xác do tác giả đưa ra, còn sensu lato (s.l. - "theo nghĩa rộng") biểu thị cách dùng rộng hơn, như bao gồm cả các loài phụ khác.[79] Các chữ viết tắt khác như "auct." (auctōrum - tác giả) hay hạn định như "non" (không) có thể được dùng làm rõ thêm nghĩa chủ đích tác giả muốn diễn tả.[72]
Placozoa là một ngành động vật cơ bản sống tự do ở biển và là động vật không xương sống.[82] Lần đầu tiên chúng được phát hiện vào năm 1883 bởi các nhà động vật học người Đức, Franz Eilhard Schulze (1840-1921)[83] và từ những năm 1970 có hệ thống hơn, phân tích bởi nhà vi sinh vật học người Đức, Karl Gottlieb Grell (1912-1994),[84] một tên thông thường cho đơn vị phân loại chưa tồn tại, tên khoa học theo nghĩa đen có nghĩa là "động vật phẳng".[85]
Placozoa
Thời điểm hóa thạch: 635–542 triệu năm trước đây[86]
Động vật bắt đầu hình thành từ đại dương. Thậm chí, trước khi các tế bào thực vật tập hợp lại với nhau ở những vũng cạn, động vật đã bắt đầu phát triển ở biển.[398] Động vật có sự khác biệt so với thực vật về sự chuyên hoá các chức năng và sự tương tác phức tạp của tế bào.[398] Đến khoảng 580 triệu năm trước, động vật đã tiến hoá[399][400][401] để có những bộ phận cứng – chẳng hạn như vỏ hoặc bộ khung xương thấy được bằng mắt thường từ bên ngoài và các hoá thạch của chúng có thể bắt gặp ở khắp nơi trên Trái đất.[398] Loài động vật đơn giản nhất tồn tại ngày nay là Trichoplax, được phát hiện vào năm 1965 khi nó bò lên thành một bể cá.[398]
Động vật là đơn ngành, nghĩa là chúng có nguồn gốc từ một tổ tiên chung. Chúng cũng là chị em với Choanoflagellata, cùng với nó tạo thành Choanozoa.[411] Giới Động vật được phân thành các nhánh như sau:[412]
Ikaria wariootia, sinh tồn vào khoảng 571-539 triệu năm trước là một loài lâu đời nhất được xác định của nhánh Bilateria.[437] Ikaria wariootia được đặt tên bởi Evansvào năm 2020[438]
Dưới đây là cây phát sinh loài cho thấy mối quan hệ giữa các đơn vị phân loại trong liên ngành động vật thứ sinh. Bằng chứng phát sinh loài họ Torquaratoridae phát sinh từ họ Ptychoderidae. Cây dựa trên dữ liệu trình tự rRNA 16S + 18S và các nghiên cứu phát sinh loài từ nhiều nguồn.[449][450][451][452][453][454][455][456][457]
Các phân tích ban đầu đưa ra kết quả không nhất quán, các giả thuyết chính cho rằng Ophiuroidea là chị em với Asteroidea, hoặc chúng là chị em với (Holothuroidea + Echinoidea).[462] Tuy nhiên, một phân tích năm 2014 trên 219 gen từ tất cả các lớp động vật da gai đã cho ra cây phát sinh loài sau đây.[463] Một phân tích thống nhất vào năm 2015 về các bản sao RNA từ 23 loài trên tất cả các lớp Da gai đã cho cùng một cây.[462]
Olfactores là một nhánh trong Chordata bao gồm Tunicata (Urochordata) và Vertebrata (đôi khi được gọi là Craniata).
Trong khi có giả thuyết cho rằng Cephalochordata là đơn vị phân loại chị em với Craniata đã có từ lâu và đã từng được chấp nhận rộng rãi[468]—có khả năng bị ảnh hưởng bởi sự biến đổi đáng kể về hình thái của Tunicata từ các loài Chordata khác, với các loài Cephalochordata thậm chí còn được đặt biệt danh là 'động vật có xương sống danh dự'[469]—các nghiên cứu từ năm 2006 phân tích các bộ dữ liệu giải trình tự lớn ủng hộ mạnh mẽ Olfactores như một nhánh.[470][471]
Vào năm 2024, một phân tích phát sinh loài bởi Mussini và đồng nghiệp đã tìm ra Vetulicolia là nhóm cận ngành thuộc nhóm thân ngành Chordata, nằm ngoài một nhánh được hình thành bởi Yunnanozoon, Cathaymyrus, Pikaia và nhóm đỉnh ngành Chordata.[476]
Nhóm ban đầu bị tranh cãi bởi một số nhà sinh học một cách đáng kể. Some argued for groupings based on more traditional taxonomic techniques,[480] while others contested the interpretation of the molecular data.[481][482]
Vào năm 2020, một phân loại mới được đề xuất, là thay vào đó nó có lẽ là Động vật lột xác (Ecdysozoa); nhóm thân của nhánh Scalidophora. Do vảy cứng và gai sau của nó tương tự như Scalidophora và thiếu lông rung.[507] Dưới đây là cây phát sinh loài được đặt ra.
Cây phát sinh chủng loài công bố năm 2011 được nhiều tác giả công nhận đối với động vật miệng nguyên sinh được chỉ ra dưới đây.[505][509][510][511][512][513][514]
Nó cũng kèm theo khoảng thời gian mà các nhánh phân tỏa ra thành các nhánh mới tính bằng triệu năm trước (Ma).[515]
Ivesheadiomorpha là một nhóm động vật đã tuyệt chủng, chúng được đặt tên bởi Boynton và Ford vào năm 1996. Cụ thể là một số loài như: Ivesheadia lobata,[524] Blackbrookia oaski, Shepshedia palmata[524] và Pseudovendia charnwoodensis.[525] Tuy nhiên, tất cả các hóa thạch này bị từ chối là đơn vị phân loại hợp lệ.[526]
Primocandelabrum[532] được Hofmann, O'Brien, và King mô tả vào năm 2008[533]
Pogonophora
Osedax roseus đặt tên bởi Rouse, Worsaae, Johnson, Jones & Vrijenhoek, 2008[535]
Pogonophora là một ngành giun còn gọi là giun ống biển.[536][537] Chúng bao gồm khoảng 80 loài[538] và sống trong các ống mỏng bị chôn vùi trong lớp trầm tích[539][540] hoặc trong các ống gắn với lớp nền cứng ở độ sâu đại dương từ 100 đến 10.000 m.
Lamellibrachia luymesi là một loài giun ống biển khổng lồ được đặt tên bởi van der Land & Nørrevang vào năm 1975[541]
Động vật ruột khoang hay động vật xoang tràng hoặc ngành Ruột khoang (Coelenterata) là một thuật ngữ đã lỗi thời nhưng vẫn rất phổ biến để chỉ một nhóm cận ngành, cơ thể hình trụ, thường có nhiều tua miệng và là động vật đa bào bậc thấp bao gồm hai ngành động vật theo quan điểm của phát sinh loài, là Ctenophora (sứa lược) và Cnidaria (san hô, sứa thật sự, hải quỳ, san hô lông chim, và các loài có họ hàng gần khác). Tên gọi của đơn vị phân loại này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "koilos" ("rỗng"), để chỉ đặc trưngkhoang cơ thể rỗng (chưa phân hóa) phổ biến ở hai ngành này. Chúng có các cơ quan, tổ chức mô rất đơn giản, chỉ với hai lớp tế bào, bên ngoài và bên trong, giữa 2 lớp là tầng keo. Động vật ruột khoang thường sống ở biển, số lượng loài của ngành ruột khoang là khoảng 10 nghìn loài.
Thuật ngữ coelenterata không còn được công nhận là hợp lệ về mặt khoa học, do Cnidaria và Ctenophora đã được đặt ở cấp tương đương ngay dưới giới Metazoa với các ngành động vật khác.[572] Một thuật ngữ duy nhất bao gồm cả hai ngành này nhưng bỏ ra ngoài toàn bộ các đơn vị phân loại cùng cấp khác có thể coi là cận ngành. Tuy nhiên, thuật ngữ coelenterata vẫn còn được sử dụng một cách không chính thức để chỉ cả hai nhóm Cnidaria và Ctenophora.
Khoảng 200 loài giun nhung đã được mô tả, mặc dù số lượng loài thực sự có khả năng lớn hơn. Hai họ giun nhung còn sinh tồn là Peripatidae và Peripatopsidae.[611][612]
Những loài vật đã được con người biết đến có khoảng 1,7 triệu loài, Trong đó, động vật có vú có hơn 4200 loài, chim có hơn 9000 loài, bò sát có hơn 5100 loài, lưỡng cư có hơn 31000 loài, cá có hơn 21000 loài, động vật không có xương sống có khoảng 1,3 triệu loài.[627]
Các nhà khoa học thuộc Đại học Dalhousie, Canada và Đại học Hawaii vừa công bố một công trình nghiên cứu. Trong đó, có khoảng 8,7 triệu loài khác nhau tồn tại trên Trái Đất, mặc dù chỉ mới có một phần nhỏ trong số này được phát hiện và phân loại. Về động vật, họ ước tính có 7,77 triệu loài động vật, trong đó 953434 loài đã được mô tả và phân loại.[629]
Bản mẫu:Tham khảo WARNING: template omitted, post-expand include size too large -->
^The taxon name, Vetulocolia, is derived from the type genus, Vetulicola, which is a compound Latin word composed of vetuli "old" and cola "inhabitant".
Bản mẫu:Chú thích WARNING: template omitted, post-expand include size too large -->. (A site with information covering trilobites from all angles. Includes many line drawings and photographs.)
Bản mẫu:Britannica WARNING: template omitted, post-expand include size too large -->