Phim mì ăn liền (tiếng Anh: Instant-noodles films) là một khẩu ngữ thông dụng để mô tả dòng phim thương mại ở Việt Nam giai đoạn đầu thập niên 1990. Những bộ phim này hầu hết dùng chất liệu băng từ, phần lớn sản xuất tại miền Nam và nắm vai trò thống lĩnh thị trường phim toàn Việt Nam trong thời kì vài năm. Tuy nhiên, dòng phim này đã thoái trào trầm trọng vào lúc chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp nhà nước được triển khai là bằng chứng cho thấy điện ảnh Việt Nam còn thụ động trước các trào lưu nghệ thuật và thương mại quốc tế[1].
Cuối thập niên 1980 đầu thập niên 1990, điện ảnh Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Những năm trước, trong thời kỳ bao cấp, các hãng phim được nhà nước cấp kinh phí để sản xuất phim, khâu phát hành phim do cơ quan khác quản lý. Đây là một trong những lý do làm giảm chất lượng phim.
Thời kỳ này, việc cắt giảm ngân sách của Nhà nước làm cho điện ảnh không đủ kinh phí để sản xuất phim. Việc phân cấp các rạp và đội chiếu bóng về cho tỉnh, thành và quận, huyện được từ đầu thập niên 1980, tới thời gian này được thực hiện triệt để. Nhà nước bắt đầu xóa bỏ bao cấp dành cho điện ảnh, chuyển từ chế độ bao cấp sang chế độ hạch toán kinh tế, có sự tài trợ một phần của Nhà nước. Các máy móc thiết bị làm phim đã cũ kỹ, tiền của Nhà nước đầu tư cho điện ảnh cũng bị thất thoát.
Trong khi đó số bộ phim màn ảnh rộng được sản xuất rất ít và không hấp dẫn được khán giả, thì lượng máy chiếu phim video trên tivi nhập vào Việt Nam tăng nhanh, phim video đơn giản, không đòi hỏi đầu tư lớn nên nhiều hãng phim quay sang sử dụng chất liệu này. Với đặc điểm của phim video, các phim mì ăn liền được sản xuất trong một thời gian chóng vánh để thu hồi vốn. Dòng phim này đã tạo nên một thế hệ minh tinh điện ảnh mới như Lý Hùng,[2] Diễm Hương, Việt Trinh, Lê Công Tuấn Anh, Lê Tuấn Anh, Thái San, Y Phụng, Công Hậu, Thu Hà, Mộng Vân, Giáng My...[3]
Giai đoạn sơ khởi, số lượng phim điện ảnh được sản xuất giảm đáng kể, số lượng rạp chiếu phim cũng giảm bớt, nhiều rạp chiếu phim bị phá bỏ, hoặc chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác, biến thành vũ trường.
Vị đắng tình yêu,[4][5] được Hãng phim Giải Phóng sản xuất năm 1991 trình chiếu năm 1992, do Lê Hoàng đạo diễn với các diễn viên Thủy Tiên, Lê Công Tuấn Anh, Lê Cung Bắc, Y Phụng, Phước Sang... Vai Quang "Don Quixote" là vai diễn dấu ấn của Lê Công Tuấn Anh. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 10 năm 1993, Vị đắng tình yêu đã giành nhiều giải quan trọng: Bông sen vàng, Đạo diễn xuất sắc, Nam diễn viên chính xuất sắc. Đây được xem là một bộ phim vừa thành công về doanh thu lẫn nghệ thuật. Phạm Công - Cúc Hoa và Vị đắng tình yêu thành công vang dội cả nghệ thuật lẫn doanh thu đã gây động lực cho tham vọng "sống dậy" của giới điện ảnh Việt Nam.
Năm 1993, chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp Nhà nước[6] được chính phủ Việt Nam tạm thời thông qua. Đến năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định 48/CP Tổ chức và hoạt động điện ảnh, cùng với chương trình Mục tiêu về điện ảnh được rót kinh phí 265 tỉ đồng để điện ảnh Việt có cơ hội thăng hoa, tuy nhiên càng về sau ngân sách đổ vào càng cao, do cả nhà nước và tư nhân đóng góp với kì vọng thúc đẩy điện ảnh Việt Nam tiến nhanh ra thị trường quốc tế, nếu có cơ hội thì vượt qua cái bóng điện ảnh Hồng Kông bấy giờ đang thống trị châu Á[7].
Sang giai đoạn kế, các nhà làm phim đua nhau khai thác đề tài dã sử võ hiệp như Thạch Sanh - Lý Thông, Tráng sĩ Bồ Đề, Thăng Long đệ nhất kiếm, Lửa cháy thành Đại La... phỏng theo dòng phim chưởng Hồng Kông Đài Loan, hấp dẫn hàng triệu lượt khán giả chen chân tới rạp. Những phim thời này được quảng cáo rất giản đơn, đôi khi chỉ bằng hình ảnh các tờ rơi hoặc bằng xe chở loa phát thanh chạy trên đường và trong hẻm thành thị.
Thời kì này gắn với giai đoạn thăng hoa đỉnh thịnh của văn hóa giải trí Hồng Kông và Đài Loan, nên xu hướng điện ảnh Việt Nam có sự cố gắng sao phỏng những thói quen tiếp cận thể tài của hai nền điện ảnh lớn này. Đương đại, một số minh tinh như Lý Hùng, Hoàng Phúc, Đơn Dương, Giáng My, Lý Hương, Ngọc Hiệp, Lê Tuấn Anh, Nguyễn Quang Hải thường xuất hiện trong các sản phẩm điện ảnh hợp tác với Hồng Kông, Mỹ, Pháp.
Thời kỳ cuối cùng, cũng là giai đoạn phát triển mãnh liệt nhất, các phim mì ăn liền khai thác những truyện tình bi lụy như Sau những giấc mơ hồng[8], Em không dối lừa, Sau cơn mưa trời lại sáng, Tóc gió thôi bay, Sao em vội lấy chồng... Đương thời xuất hiện một quan điểm về phim chiếu rạp: Mua vé xem phim có hai loại "để suy nghĩ" và "để quên đi những điều đang suy nghĩ"[9].
Đây cũng là giai đoạn điện ảnh Việt Nam tích cực hợp tác với điện ảnh ngoại quốc một cách trực tiếp nhất, thay vì chỉ đóng vai trò phụ trợ trang thiết bị và diễn viên quần chúng như trước. Chủ yếu các đối tác là Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc. Đề tài thường nặng xu hướng du đãng võ hiệp, khai thác yếu tố bần cùng trong xã hội thành thị, duy một số ít phim hợp tác với điện ảnh Hoa lục thì khai thác giá trị nhân văn trong số phận con người sau chiến tranh biên giới.
Tuy nhiên, dần dà, các phim mì ăn liền bị đánh giá là kém thuyết phục về mặt nghệ thuật, chạy đua theo lợi nhuận. Từ "mì ăn liền" được hiểu với nghĩa phim sản xuất nhanh và ít đầu tư[10]. Hầu hết minh tinh của dòng phim mì ăn liền ít nhiều còn tham dự các trào lưu điện ảnh sau.