Mệnh phụ (chữ Hán: 命婦; Hangul: 외명부), theo ý nghĩa phổ biến thì là một danh từ gọi các phụ nữ có tước hàm thuộc các triều đại phong kiến ở Trung Quốc, cùng các quốc gia Hán quyển Đông Á như Việt Nam và Triều Tiên.
Những phụ nữ có được danh xưng mệnh phụ đều phải do chính các vị Vua của triều đại ấy chính thức sắc phong, chế lệnh ban cho tước hàm cùng quần áo, thậm chí đôi khi có được thực ấp đất phong dù không phổ biến. Các triều đại lớn đều xem trọng nghi lễ, phẩm vị quan viên được thành lập là bắt buộc, song hành với đó thì các triều đại luôn cần có những tước hiệu cho mẹ hoặc vợ của họ để vinh danh dù không có thực quyền nào.
Vào thời nhà Chu, danh xưng mệnh phụ luôn ám chỉ đến vợ của quan viên, đại khái là tầng lớp Khanh-Đại phu phụ trợ Thiên tử lẫn các vị Vua chư hầu[1][2]. Sách Cựu Đường thư khi dẫn khái niệm mệnh phụ có nói:
Xã hội quân chủ khi xưa nếu đem Thiên tử cùng Vua chư hầu thống lĩnh cánh đàn ông, thì các Hậu và Quân phu nhân đều thống lĩnh các đàn bà. Cũng như quan viên, vợ của họ đều được xét vào diện có địa vị trong giới phụ nữ, để chia ra sang hèn so với vợ của những dân thường, từ đấy cách gọi 「Mệnh phụ」 ra đời. Theo đà phát triển của các triều đại, danh xưng mệnh phụ được chia ra 2 khái niệm tổng quát:
Thời nhà Đường là triều đại đầu tiên quy mô chế định tước hiệu cho phụ nữ gia quyến của quan viên đại thần. Lúc này khái niệm "Cáo mệnh" vẫn chưa tồn tại, mà chỉ là dựa theo công trạng của quan viên gia phong. Bên cạnh đó, "Ngoại mệnh phụ" nhà Đường cũng đem công chúa, vợ và con gái của hoàng tử tước vương đều gom vào, tạo thành một chế độ khá phức tạp[4][5]:
Chế độ nhà Đường cũng bắt đầu định quy tắc lễ cho mệnh phụ, khi nhập triều tham bái thì đều dựa vào lễ nghi phẩm trật của chồng hoặc con trai. Về vấn đề xin ban tước cho nữ giới trong nhà, những người con do vợ lẽ sinh ra (Thứ tử; 庶子) nếu có công danh thì chỉ có thể xin gia tôn cho mẹ cả đích mẫu, chỉ khi không có đích mẫu thì mẹ ruột mới được hưởng. Những bà mẹ tước phi và phu nhân tự động thêm chữ "Thái" (太) vào tên hiệu của mình để phân biệt với người vợ.
Danh vị "Cáo Mệnh phu nhân" (誥命夫人) là cách gọi có từ thời nhà Tống, dùng để phong cho các vợ hay mẹ của quan lại trong triều đình. Do việc phong tặng đều phải thông qua "Cáo thư" do hoàng đế phê chuẩn, và phải có sách phong chính thức nên các vị phu nhân này đều được gọi "Cáo Mệnh phu nhân" hay gọn thành "Mệnh phụ" để biểu thị tính trịnh trọng và sự chính danh của mình[6]. Họ có áo mũ dựa vào tước quan của chồng, con nhưng không có thực quyền chính trị nào cả.
Tước hiệu mệnh phụ thời nhà Tống về cơ bản học theo nhà Đường, nhưng bắt đầu chế định nên chế độ "Cáo mệnh", trở thành căn bản của nhiều triều đại sau. Nhà Tống gọi các bậc ngoại mệnh phụ tổng có 14 vị[7]:
Trước cải cách của Tống Huy Tông vào năm Chính Hòa thứ 3 (1113), triều Tống ngoài Đại trưởng công chúa đến Huyện chúa, thì còn hai tước hiệu đặc thù là Quận quân (郡君) và Huyện quân (縣君). Hai tước vị này ở thời Tống thì phạm vi gia phong rất rộng, từ nội mệnh phụ đến ngoại mệnh phụ, hoàng tử phi, tông nữ đều có thể gia phong tước hiệu này, nhưng sau đó từ "Quận quân" chia thành "Thục nhân" đến "Cung nhân", còn "Huyện quân" là 3 tước Mệnh phụ còn lại[8].
Khác với nhà Đường thì nhà Tống không dùng "phẩm cấp" để quy định thứ bậc cho ngoại mệnh phụ, ngoài duy trì "Nội mệnh phụ Ngũ phẩm", còn 14 tước vị này chia theo "đẳng giai", tức chỉ đơn thuần thứ tự bậc cao hơn và thấp hơn mà không gọi phẩm. Những tước vị này được quy định cụ thể để truy phong cho hàng quan chức nào theo những dịp đại phong[9], còn ngoài ra thì cũng tùy đặc chỉ mà có tước hiệu, như con gái công thần cũng có thể phong những tước hiệu vượt quá thân phận như Quận chúa cùng Huyện chúa[a], con gái của công chúa dù trước nay không có lệ gia phong nhưng ở thời Tống cũng có thể phong quận chúa[b], hay các hoàng tử phi đều thụ phong "Quốc phu nhân" cùng "Quận phu nhân" mà không gọi đơn giản là "Vương phi" như nhà Đường. Đây là một đặc điểm tương đối phổ biến thời Tống.
Triều đại nhà Nguyên tiếp bước quy chế mệnh phụ như của triều Tống, chia ra mệnh phụ dựa theo chồng con mà có địa vị được phân ra 3 hạng phẩm vị là từ Nhất phẩm đến Tam phẩm, từ Tứ phẩm đến Lục phẩm và từ Lục phẩm trở xuống[10]. Về phong hiệu chi tiết, căn cứ quy định phong tặng vị hiệu của quan viên, thu được 6 tước hiệu[11]:
Hai triều nhà Minh và nhà Thanh đều mô phỏng quy định tước hiệu của nhà Tống nên có khá nhiều tương đồng. Cả hai đều đem "phẩm cấp" dùng cho ngoại mệnh phụ và chính thức đưa danh vị công chúa-quận chúa ra khỏi hệ thống ngoại mệnh phụ, khiến cho khái niệm mệnh phụ chỉ gói gọn trong gia quyến quan lại[12]. Theo nhà Minh, tước phong của các hoàng nữ và tông nữ về cơ bản được dựa theo nhà Tống[13], còn nhà Thanh chia hoàng nữ làm hai tước là "Cố Luân Công chúa" cùng "Hòa Thạc Công chúa", bên cạnh đó các tông nữ đều có hệ thống Cách cách phức tạp.
Căn cứ Minh sử cùng Thanh sử cảo, chế độ thứ bậc mệnh phụ cụ thể:
Quy định phong tặng nhà Minh tương đối chi tiết. Ngoài chuyện thêm chữ "Thái" nếu người đàn bà ấy được gia phong vì con cái, thì cũng quy định đích mẫu còn thì không được thỉnh phong sinh mẫu, nếu có sinh mẫu còn sống mà chưa được phong thì không được phong thê tử trước. Khi phong thê tử, chỉ được ban ân gia phong đích thê và một kế thê, tức chỉ có "Nguyên phối thê tử" và "Kế thê đầu tiên" là được phong.
Thời Thanh cơ bản noi theo cách cũ của đời Minh, dùng "Cáo mệnh" (诰命) và "Cáo sắc" (诰敕) làm cơ sở phân chia thứ bậc. Đời Thanh quy định, phàm là quan viên triều đình khi đạt được chức quan thì cũng có đãi ngộ hạng ngạch tương ứng, xuất phát từ ưu đãi mà suy xét, quan viên có thể thông qua "Đàm ân cáo sắc" (覃恩诰敕) để có thể xin ban ân cho thành viên trong gia đình mình. Căn cứ phẩm cấp khác nhau của quan viên, phạm vi "Đàm ân cáo sắc" cùng hình thức cũng khác nhau.
Tại Việt Nam, các triều nhà Lý và nhà Trần đã không thể khảo được chế định toàn vẹn, chỉ hai triều đại Hậu Lê cùng nhà Nguyễn là có lượng tư liệu còn đủ, mới xác định được thứ bậc ngoại mệnh phụ đều mô phỏng Tống-Minh. Căn cứ Lịch triều hiến chương loại chí và Đại Nam thực lục, tước phong mệnh phụ thời nhà Lê và nhà Nguyễn có thứ tự như sau.
Tước hiệu nhà Lê đại đa phần là truy phong, tức sau khi qua đời thì tặng cha mẹ của quan viên, rồi mới tới người vợ. Khi phong tặng thì cha mẹ đều kém 1 bậc so với con trai, đây là áp dụng với cả công thần được thụ phong tước hiệu Công, Hầu và Bá, mà phạm vị bị giảm có khác biệt giữa quan văn và quan võ. Theo lệ thời Hồng Đức vào năm thứ 2 của Lê Thánh Tông, quy định về phong tặng quan viên:
Thời nhà Nguyễn cũng rất ít lạm tước, đến hoàng tộc nhà Nguyễn cũng phải luận công hay không mà gia phong, sự gia phong cũng rất ít, do đó tước hiệu ngoại mệnh phụ sử dụng gần như chỉ để phong tặng cha mẹ và vợ quan viên, đặc biệt là những ngoại thích (cha mẹ các hoàng thái hậu). Các hoàng nữ và tôn nữ chỉ có thân phận, hoàng nữ tuy có phong tước công chúa nhưng đại đa số chỉ là xưng hô mà không có tước phong thái ấp đúng nghĩa (xem kỹ ở bài Hoàng tộc nhà Nguyễn).
Nhà Cao Ly tại Triều Tiên, tước hiệu Phu nhân còn dùng để phong cho các con gái của quốc vương, như Cao Ly Quang Tông năm ấy phong hai con gái lần lượt là Thiên Thu điện phu nhân (千秋殿夫人) cùng Bảo Hoa cung phu nhân (寶華宮夫人). Mặt khác lại có các tước hiệu như Quốc Đại phu nhân (國大夫人; 국대부인), Quận Đại phu nhân (郡大夫人; 군대부인) và Phủ phu nhân (府夫人; 부부인) đều dành cho Ngoại mệnh phụ. Từ đây Cao Ly có cơ sở tước hiệu Ngoại mệnh phụ khá đặc thù được phát triển ở thời Triều Tiên ngay sau đó.
Đến thời kỳ nhà Triều Tiên, thực tế triều đại này chia làm rất nhiều giai đoạn, nhưng đều lấy Triều Tiên Thế Tông và Triều Tiên Thành Tông làm cột móc lớn, bởi vì rất nhiều thay đổi về quan chế tước hiệu diễn ra sau Thế Tông và Thành Tông, trong đó là thứ bậc và tên tước vị của tông thất lẫn ngoại mệnh phụ. Sơ kỳ Triều Tiên, mẹ của vương phi ban đầu hoạch phong "Quốc Đại phu nhân", cụ thể là "Tam Hàn Quốc Đại phu nhân" (三韓國大夫人), sau mới sửa thành "Phủ phu nhân" như hiện tại biết đến. Hoặc như con gái quốc vương gọi Cung chúa (宮主; 궁주) cũng rất thường thấy, sau cũng dần sửa đổi cho khác biệt. Triều Tiên coi trọng Nho giáo, con trai của quốc vương ("vương tử") cùng con gái của quốc vương ("vương nữ") đều chia ra Đích (嫡) và Thứ (庶) rất gay gắt. Gọi là "Đích" tức là do chính thất vương phi sinh ra, còn "Thứ" là do hậu cung tần ngự sinh ra, do vậy tước hiệu vương thất giữa Đích tử-Thứ tử cùng Đích nữ-Thứ nữ của Triều Tiên cũng có khác biệt, đặc biệt là kể từ sau thời Thành Tông.
Chế độ Triều Tiên thời Thái Tổ và Thái Tông mô phỏng Trung Quốc và triều đại trước là Cao Ly, định phong tước cho mệnh phụ tông thất cùng mệnh phụ quan viên, song khoảng cách giữa các mệnh phụ lại khá nhập nhằng và phức tạp[15][16].
Pháp chế Triều Tiên qua nhiều đợt tu sửa, từ sau Thành Tông thì trở thành chế độ gần như bất di bất dịch và được biết đến nhiều nhất. Vương đích tử thụ phong Đại quân (大君; 대군), các vương thứ tử phong Quân (君; 군), đích nữ là Công chúa còn thứ nữ là Ông chúa. Ngoài ra, các tước hiệu ngoại mệnh phụ cũng được bỏ đi nhiều định chế từ Thái Tổ, Thái Tông cùng Thế Tông, tạo ra một hệ thống tinh giản hơn.
Vào thời Minh-Thanh, quy chế tước vị đã hoàn chỉnh nên "Phu nhân" chỉ dùng cho ngoại mệnh phụ và các nữ quan có công lao. Ngoài ra, do hai triều Minh-Thanh triệt để tránh ngoại thích, họ không cho các vị hoàng tử và công chúa gần gũi thân mẫu mà thường giao nhũ mẫu chăm sóc, thành ra rất nhiều nhũ mẫu của hoàng đế được vinh hiển, như: