Thước phim ngắn 3 giây Katsudō Shashin(活動写真?, "Tấm hình chuyển động") xuất hiện vào năm 1907 ở Nhật Bản được tin là phim hoạt hình lâu đời nhất trong nước, sau đó được tìm lại vào năm 2005, mô tả cảnh một cậu bé thủy thủ đang viết tiêu đề của phim. Bao gồm 50 khung hình của một thước cel phim.[2][3] Dù vậy vẫn chưa thể kết luận đây là anime đầu tiên. Còn có những bộ phim hoạt hình nước ngoài được tìm thấy ở Nhật Bản vào năm 1910, nhưng chưa rõ liệu bộ phim đó đã từng được chiếu trong rạp phim hay được công khai. Bộ phim Nippāru no Henkei (ニッパールの変形, "Nippāru's Transformation") được ra mắt tại Nhật Bản ở Asakusa Teikokukan (浅草帝国館) tại Tokyo năm 1911, nhưng bộ phim này chưa được xem là hoạt hình thật. Bộ phim đầu tiên được công chiếu ở Nhật là Les Exploits de Feu Follet của nghệ sĩ người Pháp Émile Cohl năm 1912, dài gần ba phút rưỡi. Trong thời gian này, phim ảnh Đức được bán trên thị trường và phân phối tại Nhật.[2]
Thập niên 1980
Sự chuyển dịch của thể loại space opera trở nên rõ ràng hơn với sự thành công về mặt thương mại của bộ phim điện ảnh Mỹ Star War - Chiến tranh giữa các vì sao (1977). Điều này góp phần làm cho tác phẩm space opera Space Battleship Yamato (1974) được tái xuất với một bộ phim chiếu rạp vào năm 1982. Thành công đến từ những bản chiếu rạp của Yamato và Gundam được xem là khởi đầu cho giai đoạn bùng nổ anime của thập niên 1980, được ví như "Kỷ nguyên vàng thứ hai của điện ảnh Nhật Bản".[4] Một tiểu văn hóa mà nhiều người sau này gọi là otaku bắt đầu nhen nhóm quanh các tạp chí hoạt hình như Animage và Newtype. Những tạp chí này được thành lập nhằm đáp ứng lượng người hâm mộ (fandom) đông đảo hình thành quanh những chương trình như Yamato và Gundam vào cuối thập 1970 và đầu thập niên 1980.
Tại Mỹ, sự nổi tiếng của Chiến tranh giữa các vì sao có nét tương đồng mặc dù nhỏ hơn nhiều so với hiệu ứng phát triển của anime. Gatchaman được tái dựng thành Battle of the Planets (1978) và G-Force (1988). Loạt phim Macross khởi động với Super Dimension Fortress Macross (1982) - phim được chuyển thể thành hồi đầu tiên của bộ phim tiếng Anh Robotech (1985); Super Dimension Fortress Macross còn cho ra đời thêm ba tựa anime riêng: The Super Dimension Fortress Macross, Super Dimension Cavalry Southern Cross và Genesis Climber Mospeada. Phần tiếp theo của Mobile Suit Gundam, Mobile Suit Zeta Gundam (1985) trở thành tác phẩm space opera real robot thành công nhất tại Nhật Bản, nơi phim nắm giữ tới 6,6% tỉ lệ lượt xem truyền hình và đạt cao nhất là 11,7%.[5]
Tiểu văn hóa otaku ngày càng rõ ràng hơn với việc Oshii Mamoru chuyển thể bộ manga nổi tiếng Urusei Yatsura (1981) của Takahashi Rumiko. Yatsura đã biến Takahashi thành nhân vật của công chúng, còn Oshii tự tách ra khỏi văn hóa hâm mộ và mang đến góc tiếp cận mang tính auteur hơn với bộ phim Urusei Yatsura 2: Beautiful Dreamer của ông. Việc tách ra khỏi tiểu văn hóa otaku cho phép Oshii thử nghiệm nhiều hơn. Otaku còn có vài tác động đến những người gia nhập ngành công nghiệp trong thời gian này. Nổi tiếng nhất trong số những người này là nhóm làm phim nghiệp dư Daicon Films, tiền thân của hãng phim Gainax sau này. Gainax bắt đầu với việc làm phim cho các hội nghị khoa học viễn tưởng của Daicon và trở nên quá nổi tiếng trong cộng đồng otaku đến nỗi họ được trao cơ hội thực hiện bộ anime có kinh phí "khủng" nhất [thời điểm đó] là Royal Space Force: The Wings of Honnêamise (1987).
Một trong những tác phẩm anime giàu ảnh hưởng nhất mọi thời đại, Nausicaä của Thung lũng Gió (1984) ra đời trong giai đoạn này. Bộ phim đem lại nhiều uy tín hơn cho anime, cho phép các dự án mang tính thử nghiệm và giàu tham vọng được đầu tư ngay sau khi phim phát hành. Nausicaä của Thung lũng Gió còn cho phép đạo diễn Miyazaki Hayao và người cộng sự lâu năm Takahata Isao lập ra xưởng phim của riêng họ, dưới sự giám sát của cựu biên tập viên tạp chí AnimageSuzuki Toshio. Xưởng phim này còn được biết đến với cái tên Studio Ghibli và bộ phim đầu tiên của hãng là Laputa: Lâu đài trên mây (1986), một trong tác phẩm điện ảnh giàu tham vọng nhất của Miyazaki.
Thành công của Dragon Ball (1986) đã giới thiệu thể loại võ thuật và có tầm ảnh hưởng đáng kinh ngạc trong nền công nghiệp hoạt hình Nhật Bản. Nhiều loạt manga và anime võ thuật sau này, như YuYu Hakusho (1990), One Piece (1999), Naruto (2002) và One Punch Man (2015) đều chịu ảnh hưởng từ Dragon Ball. Thập niên 1980 còn mang đến cho anime thị trường băng đĩa tại gia dưới dạng Original video animation (OVA). Đĩa OVA đầu tiên là Dallos của Oshii Mamoru (1983-84). Những chương trình như Patlabor cũng khởi đầu ở thị trường này và đây là một cách thử nghiệm những bộ hoạt hình kén người xem tới tay người tiêu dùng. Định dạng OVA còn cho phép phát hành bộ anime khiêu dâm như Cream Lemon (1984); đĩa OVA hentai đầu tiên thực chất là bộ Lolita Anime (1984) ít tiếng tăm của xưởng phim Wonder Kids. Những bộ anime đề tài thể thao phổ biến ngày nay có màn ra mắt vào năm 1983 với bản chuyển thể manga bóng đáTsubasa Giấc mơ sân cỏ của Takahashi Yōichi, phim trở thành bộ anime đề tài thể thao thành công toàn cầu đầu tiên. Chủ đề và cốt truyện của phim trở thành một công thức mà nhiều loạt phim thể thao sau này sử dụng, như Slam Dunk, The Prince of Tennis và Eyeshield 21.
Thập niên 1980 chứng kiến một lượng lớn các bộ phim lẻ có kinh phí cao và mang tính thử nghiệm. Năm 1985, Suzuki Toshio hỗ trợ tài chính cho tác phẩm thử nghiệm Angel's Egg (1985) của Oshii. Những bản chiếu rạp trở nên giàu tham vọng hơn, mỗi phim đều cố gắng cân bằng hoặc vượt qua các tác phẩm tiền nhiệm, nhờ hiệu ứng thành công cả về mặt chuyên môn và đại chúng của Nausicaä. Night on the Galactic Railroad (1985), Truyện kể Genji (1986) và Mộ đom đóm (1988) đều là những bộ phim điện ảnh giàu tham vọng dựa trên các sáng tác văn học quan trọng ở Nhật Bản. Những phim như Char's Counterattack (1988) và Arion (1986) đều được sản xuất với chi phí "khủng". Giai đoạn của những tác phẩm thử nghiệm và đắt đỏ về kinh phí đạt đến đỉnh điểm với hai bộ anime có chi phí sản xuất đắt nhất từng thực hiện từ trước đến nay, Royal Space Force: The Wings of Honneamise (1987) và Akira (1988). Dịch vụ giao hàng của phù thủy Kiki (1989) của Studio Ghibli là phim điện ảnh có doanh thu cao nhất năm 1989 khi đem về 40 triệu USD.
Mặc dù thất bại về mặt doanh thu nội địa, Akira lại thu hút một lượng lớn người hâm mộ (fanbase) quốc tế cho anime. Khi được chiếu ở nước ngoài, tác phẩm trở nên kinh điển và thành biểu tượng của giới truyền thông ở phương Tây. Thất bại ở nội địa và thành công ở nước ngoài của Akira, cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế bong bóng và cái chết của Tezuka Osamu là những nét chính cuối cùng trong kỷ nguyên anime ở thập niên 1980.
Thập niên 1990
Năm 1995, Anno Hideaki là người viết kịch bản và đạo diễn bộ anime gây tranh cãi Neon Genesis Evangelion. Chương trình trở nên nổi tiếng tại Nhật Bản trong cộng đồng hâm mộ anime và được đông đảo công chúng biết tới thông qua sự chú ý từ giới truyền thông đại chúng. Có người tin rằng Anno lúc đầu muốn chương trình sau này trở thành bộ anime otaku, được thiết kế để vực dậy ngành công nghiệp anime đang xuống dốc, nhưng trong lúc sản xuất ông đã làm cho bộ anime phải nhận sự chỉ trích nặng nề từ bộ phận tiểu văn hóa. Sự chỉ trích lên đến đỉnh điểm với tác phẩm thành công nhưng gây tranh cãi The End of Evangelion phát hành năm 1997 và thu về 10 triệu USD. Rất nhiều cảnh nóng và bạo lực trong Evangelion khiến đài TV Tokyo phải tăng cường kiểm duyệt nội dung anime. Kết quả là khi Cowboy Bebop lần đầu phát sóng vào năm 1989, phim đã bị chỉnh sửa tương đối nhiều và chỉ có một nửa số tập được lên sóng; tuy nhiên phim vẫn trở nên nổi tiếng ở cả trong và ngoài Nhật Bản.
Evangelion đã khởi đầu cho một loạt các show mecha, còn được gọi là "post-Evangelion" hay "organic". Hầu hết chúng đều là phim về robot khổng lồ với một số nội dung phức tạp hoặc về tôn giáo, có thể kể đến RahXephon, Brain Powerd và Gasaraki. Evangelion còn dẫn đến những chương trình anime thử nghiệm chiếu vào đêm muộn, khởi đầu với Serial Experiments Lain (1998) và trở thành nơi tập trung cho các bộ anime thử nghiệm Boogiepop Phantom (2000), Texhnolyze (2003) và Paranoia Agent (2004). Những bộ phim điện ảnh anime thử nghiệm cũng phát hành vào thập niên 1990, đáng chú ý nhất là siêu phẩm cyberpunk giật gân Ghost in the Shell (1995)[6] – nguồn ảnh hưởng cực lớn của bộ phim điện ảnh Mỹ Ma trận (1999).[7][8][9]Ghost in the Shell, bên cạnh Evangelion và sê-ri neo-noirviễn Tây vũ trụCowboy Bebop đã giúp tăng cường nhận thức về anime trên thị trường quốc tế.[10]
Năm 1997, Công chúa Mononoke của Miyazaki Hayao trở thành bộ phim điện ảnh anime đắt đỏ nhất tính đến thời điểm đó, với chi phí sản xuất là 20 triệu USD. Miyazaki còn đích thân kiểm tra từng tấm hình trong 144.000 cel[11] và ước tính phải vẽ lại tới 80.000 bức.[12] Đến năm 1998, hơn 100 chương trình anime đã lên sóng trên truyền hình ở Nhật Bản, bao gồm loạt phim nổi tiếng dựa trên nhượng quyền trò chơi điện tử Pokémon. Những bộ anime khác gặt hái thành công quốc tế trong thập niên 1990 là Dragon Ball Z, Thủy thủ Mặt Trăng và Digimon; thành công của những show này khiến quốc tế thừa nhận các dòng phim võ thuậtsiêu anh hùng, mahō shōjo và hành động-phiêu lưu. Đặc biệt, Dragon Ball Z và Thủy thủ Mặt Trăng đều được lồng tiếng sang hàng tá ngôn ngữ trên thế giới. Một bộ anime thành công vang dội khác là One Piece, dựa trên bộ manga bán chạy nhất mọi thời đại và vẫn còn được sản xuất đến nay.
Thập niên 2000 còn đánh dấu sự hiện diện rõ ràng của tiểu văn hóa otaku. Một bài phê bình tiểu văn hóa otaku này được phát hiện trong bộ anime Welcome to the N.H.K. (2006) - có sự góp mặt của nhân vật chính kiểu hikikomori (dạng tách biệt khỏi xã hội), khám phá những ảnh hưởng và hệ quả của nhiều tiểu văn hóa Nhật Bản như otaku, lolicon, tự sát internet, trò chơi trực tuyến nhiều người chơi và kinh doanh đa cấp. Thập niên còn cho thấy sự hồi sinh của các bộ anime điện ảnh thời lượng dài có kinh phí cao như Millennium Actress (2001), Metropolis (2001), Appleseed (2001), Paprika (2006) và tác phẩm đắt giá nhất trong số trên là Steamboy (2004) với kinh phí sản xuất 26 triệu USD. Kon Satoshi đã tạo dựng được danh tiếng cùng với Otomo và Oshii như là các đạo diễn anime điện ảnh hàng đầu, trước khi ông qua đời khi còn rất trẻ, thọ 46 tuổi. Các đạo diễn trẻ khác, như Hosoda Mamoru, người cầm trịch Cô gái vượt thời gian (2006) và Cuộc chiến mùa hè (2009) cũng bắt đầu nổi tiếng.
Ngày 6 tháng 9 năm 2013, Miyazaki Hayao tuyên bố The Wind Rises (2013) sẽ là phim lẻ cuối cùng của ông, vào ngày 3 tháng 8 năm 2014, có nguồn tin cho biết Studio Ghibli đã "tạm thời ngừng hoạt động" sau khi cho phát hành When Marnie Was There (2014) - bằng chứng rõ ràng cho việc Miyazaki nghỉ hưu. Việc Chuyện công chúa Kaguya - tác phẩm đánh dấu sự trở lại của Takahata Isao có doanh số bết bát ở phòng vé cũng được chỉ ra là một tác nhân.[19] Một số nhân viên xuất sắc của Ghibli, bao gồm nhà sản xuất Nishimura Yoshiaki và đạo diễn Yonebayashi Hiromasa đã rời hãng phim để lập ra xưởng phim của riêng họ, Studio Ponoc và cho ra mắt tác phẩm đầu tay của Ponoc là Mary và Đóa hoa phù thủy (2017).[20][21][22] Sau này cả Ghibli và Miyazaki đều quay trở lại làm việc để thai nghén dự án sắp tới của họ, How Do You Live?,[23] trong khi đó Takahata qua đời vào ngày 5 tháng 4 năm 2018 vì bị ung thư phổi.[24] Bên cạnh đó, nhiều công ty phân phối anime quốc tế ADV Films, Bandai Entertainment và Geneon Entertainment đã phải ngừng hoạt động vì doanh thu kém, còn khối tài sản của những công ty này được chuyển vào các công ty mới như Sentai Filmworks hoặc giao lại cho công ty khác.[25]
Cả Attack on Titan và The Wind Rises đều phản ánh cuộc xung đột quốc gia xoay quanh việc tái diễn giải Điều 9 của Hiến pháp Nhật Bản; nếu chủ nghĩa hòa bình của Miyazaki trong The Wind Rises đến từ ngọn lửa chính trị cánh hữu,[26] thì Attack on Titan bị cáo buộc vì khuyến khích chủ nghĩa quân phiệt ở các nước châu Á láng giềng, dù các nhà làm phim dự định thể hiện các khía cạnh ám ảnh và tuyệt vọng của cuộc xung đột.[27] Thể loại mecha anime (còn được biết đến là dòng phim kaiju của Nhật Bản) nhận được sự tôn trọng từ khán giả phương Tây khi tác phẩm Siêu đại chiến của đạo diễn Guillermo del Toro ra rạp vào năm 2013.[28] Các hãng dịch vụ trực tuyến phương Tây như Netflix và Amazon Prime đang ngày càng bành trướng trong việc tham gia sản xuất và được cấp phép chiếu anime.[29]
Clements, Jonathan and Barry Ip (2012) "The Shadow Staff: Japanese Animators in the Toho Aviation Education Materials Production Office 1939–1945" in Animation: An Interdisciplinary Journal 7(2) 189-204.
Okada, Toshio et al. (2005), "Otaku Talk". Little Boy: The Arts of Japan's Exploding Subculture. Ed. Takashi Murakami. Japan Society and Yale University Press. ISBN0-913304-57-3.
Richie, Donald (2005). A Hundred Years of Japanese Film: A Concise History, with a Selective Guide to DVDs and Videos. Kodansha America. ISBN4-7700-2995-0.
Species of bird Sahel paradise whydah A Sahel paradise whydah (male), photographed in The Gambia in December 2021 Conservation status Least Concern (IUCN 3.1)[1] Scientific classification Domain: Eukaryota Kingdom: Animalia Phylum: Chordata Class: Aves Order: Passeriformes Family: Viduidae Genus: Vidua Species: V. orientalis Binomial name Vidua orientalisHeuglin, 1870 The Sahel paradise whydah, yellow-naped whydah or northern paradise whydah (Vidua orientalis) is a small songbi…
Instituto Tecnológico Metropolitano de Medellín Sigla ITMSobrenombre el ITMTipo Pública, municipal y autónomaFundación 1944LocalizaciónDirección Campus Robledo, Calle 73 No. 76A-354, Via al Volador Medellín, Antioquia, ColombiaCoordenadas 6°16′25″N 75°35′19.597″O / 6.27361, -75.58877694Otras sedes Campus Robledo Campus Fraternidad Sede La Floresta Sede Castilla Sede Prado Sede PobladoAdministración (2023)Rector Alejandro Villa GómezPresupuesto…
Railway tunnel on the West Coast Main Line Primrose Hill Tunnel1837 watercolour engraving of the eastern portal before duplicationOverviewLineWest Coast Main LineLocationPrimrose Hill, Camden, London, EnglandSystemNational RailOperationWork begun1834Opened1838OwnerNetwork RailTechnicalDesign engineerRobert Stephenson and William BuddenLength1,164 yards (1,064 m)No. of tracksDouble track in each boreTrack gaugeStandard gaugeElectrified25 kV AC OHLE Listed Building – Grade IIOfficial namePr…
Bomberman Обложка северо-американского издания игры для консоли PC Engine Разработчик Hudson Soft Издатель Hudson SoftUBI Soft Часть серии Bomberman Дата выпуска PC-Engine/Turbografx-16 7 декабря 1990 1991 X68000 19 апреля 1991 Super CD-ROM² 1992 Amiga, Atari ST, MS-DOS 1992/1993 Microsoft Windows: 19 декабря 2002 24 марта 2003 Жанр ЭкшнЛабиринтпати[en] Созда
Service dog of George H.W. Bush Sully H. W. BushSully in 2018SpeciesCanis lupus familiarisBreedLabradorSexMaleBorn (2016-07-14) July 14, 2016 (age 7)OccupationService dogEmployerWalter Reed National Military Medical CenterNamed afterChesley Sullenberger IIIwww.instagram.com/sullyhwbush Sully H. W. Bush (born July 14, 2016) is a Labrador Retriever employed as a service dog for disabled military veterans in the United States. He served with the former President of the United States George H. …
1969 Italian filmCerto certissimo... anzi probabileDirected byMarcello FondatoWritten byDacia MarainiStarringClaudia CardinaleCinematographyAlfio ContiniMusic byCarlo RustichelliRelease date 1969 (1969) Running time120 minutesCountryItalyLanguageItalian Certo certissimo... anzi probabile (Certain, Very Certain, As a Matter of Fact... Probable; English title Diary of a Telephone Operator[1]) is a 1969 Italian film based on the story of the same title by Dacia Maraini. It stars Claudi…
San Antonio Este Plaats in Argentinië Situering Provincie Río Negro Departement San Antonio Coördinaten 40° 49′ ZB, 64° 45′ WL Algemeen Inwoners (2001) 280 Bevolkingsgroei + 60,9% (1991-2001) Overig Postcode(s) R8 Opgericht door decreto del P.E.N. Informatie over de gemeente Portaal Zuid-Amerika San Antonio Este is een plaats in het Argentijnse bestuurlijke gebied San Antonio in de provincie Río Negro. De plaats telt 280 inwoners. Galerij Geplaatst op:21-07-2007 Di…
This article is about the Dave Matthews and Tim Reynolds album. For other uses, see Live from Radio City Music Hall. This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Live at Radio City – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (June 2020) (Learn how and when to remove this template message) 2007 live album…
American politician (born 1987) Mondaire JonesMember of the U.S. House of Representativesfrom New York's 17th districtIn officeJanuary 3, 2021 – January 3, 2023Preceded byNita LoweySucceeded byMike LawlerMember of the United States Commission on Civil RightsIncumbentAssumed office January 3, 2023Appointed byNancy Pelosi Personal detailsBorn (1987-05-18) May 18, 1987 (age 36)Nyack, New York, U.S.Political partyDemocraticEducationStanford University (BA)Harvard Univ…
Nantucket Sound Nantucket Sound Vista de satélite del Nantucket Sound(norte hacia abajo)Ubicación geográficaContinente América del NorteOcéano Océano AtlánticoCoordenadas 41°20′00″N 70°14′58″O / 41.333333333333, -70.249444444444Ubicación administrativaPaís Estados UnidosDivisión MassachusettsCondado de BarnstableCuerpo de aguaLongitud 48 kmAncho máximo 40 kmCiudades costeras Nantucket y HyannisMapa de localización Nantucket Sound Geolocalización…
2005 American filmThe ApeFilm posterDirected byJames FrancoWritten byJames FrancoMerriwether WilliamsProduced byVince JovietteStephen KayoDavid KleinZak KnutsonStarringJames FrancoBrian LallyCinematographyDavid KleinEdited byScott MosierMusic byEric StratmannProductioncompanyRabbit Bandini ProductionsDistributed byTLA ReleasingRelease date June 16, 2005 (2005-06-16) Running time92 minutesCountryUnited StatesLanguageEnglish The Ape is a 2005 American comedy film directed by James F…
Технологія розробки програмного забезпеченняЦикл розробки програмного забезпеченняПрограміст за роботою Діяльність і кроки Вимоги Специфікація Архітектура Дизайн Реалізація Тестування Розгортання Реліз Супровід МетодологіїПроцес Гнучка Чистого приміщення DSDM Ітера…
Chú bé đánh giàyThể loạiPhim hoạt hìnhKịch bảnDoãn ThànhĐạo diễnDoãn ThànhQuốc gia Việt NamNgôn ngữTiếng ViệtSản xuấtĐịa điểmHà NộiThời lượng10 phútĐơn vị sản xuấtS18AnimationTrình chiếuKênh trình chiếuVTV6Quốc gia chiếu đầu tiên Việt NamPhát sóng2009Thông tin khácChương trình sauGóc phố (2010)Liên kết ngoàiTrang mạng chính thức khác Chú bé đánh giày[1] là một phim hoạt hình ng
Concept in Abrahamic religions For other uses, see Kingdom of Heaven (disambiguation). Stained glass by Hallward depicting Matt 5:10: Blessed are the poor in spirit: For theirs is the Kingdom of Heaven. Part of a series onUtopias Mythical and religious Arcadia City of the Caesars Cloud cuckoo land Cockaigne Eden Elysium Fortunate Isles Garden of the gods Shangri-La Golden Age Satya Yuga Great Unity Ketumati Kingdom of God Opona Mag Mell Mahoroba Merry England Mezzoramia Mount Penglai Most Great …
Taylor & FrancisPerusahaan indukInformaStatusAktifDidirikan1852; 170 tahun lalu (1852)PendiriWilliam Francis dan Richard TaylorNegara asalBritania RayaKantor pusatMilton Park, Abingdon-on-Thames, Oxfordshire Britania RayaDistribusiSeluruh duniaTokoh kunciRoger Horton (CEO);[1][2] Ian Bannerman (MD, Journals);[2] Jeremy North (MD, Books);[2] Christoph Chesher (Group Sales Director).[2]Jenis terbitanBuku & jurnal tertelaah sejawatTopik nonfiksiH…
Charles Itandje Informasi pribadiNama lengkap Charles-Hubert ItandjeTanggal lahir 2 November 1982 (umur 41)Tempat lahir Bobigny, PrancisTinggi 6 ft 4 in (1,93 m)Posisi bermain Penjaga GawangInformasi klubKlub saat ini LiverpoolNomor 30Karier junior1997-2001 Red Star 93Karier senior*Tahun Tim Tampil (Gol) 2001–20072007– RC LensLiverpool 170 (0)000 (0) Tim nasional‡2000-2001 Prancis U21 025 (0)00 * Penampilan dan gol di klub senior hanya dihitung dari liga domestik d…
U.S. Senate election in New York 1869 United States Senate election in New York ← 1863 January 19, 1869 1875 → Majority vote of each house needed to win Nominee Reuben Fenton Henry Cruse Murphy Party Republican Democratic Senate 15 10 Percentage 57.69% 38.46% House 73 46 Percentage 61.34% 38.66% Senator before election Edwin D. Morgan Republican Elected Senator Reuben Fenton Republican Elections in New York State Federal government Presidential elections 1792 1796 18…
Germencik Stad in Turkije Situering Provincie Aydın District Germencik Coördinaten 37° 52′ NB, 27° 36′ OL Algemeen Inwoners (2000) 11.596 Foto's Portaal Turkije Germencik is een stadje en een gelijknamig district in het Ege (Egeïsche) gebied Ege van Turkije. Het behoort tot de provincie van Aydın. De stad telt ongeveer 12.000 inwoners. Germencik ligt in het midden van de vruchtbare laagvlakte van Büyük Menderes (Grote Menderes). Het ligt aan de weg Aydın-İzmir …
2001 West Bengal Legislative Assembly election ← 1996 10 May 2001 2006 → All 294 seats in the West Bengal Legislative Assembly148 seats needed for a majorityTurnout75.29% First party Second party Third party Leader Buddhadeb Bhattacharya Mamata Banerjee Pranab Mukherjee Party CPI(M) TMC INC Alliance LF INC+TMC INC+TMC Leader's seat Jadavpur Did not contest[a] Did not contest Seats won 143 60 26 Seat change 10 New 56 Popular vote 13,…