Laura Robson

Laura Robson
Quốc tịch Anh Quốc
Nơi cư trúLuân Đôn, Anh Quốc
Sinh21 tháng 1, 1994 (30 tuổi)
Melbourne, Victoria, Úc
Chiều cao1,80 m (5 ft 11 in)[1]
Lên chuyên nghiệp2008
Tay thuậnTrái (trái tay 2 tay)
Huấn luyện viênMartijn Bok (2007-2010)
Patrick Mouratoglou (2011)[2]
Luke Milligan (2011-2012)
Željko Krajan (2012-2013)[3]
Miles Maclagan (2013)[4]
Nick Saviano (2013)[5]
Jesse Witten (2013)[5]
Mauricio Hadad (2014-2016)[6]
Tiền thưởng1.575.975$
Đánh đơn
Thắng/Thua156-147
Số danh hiệu0 WTA, 3 ITF
Thứ hạng cao nhất27 (8.7.2013)
Thứ hạng hiện tại247 (18.9.2017)[7]
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngV3 (2013)
Pháp mở rộngV1 (2012, 2013, 2016)
WimbledonV4 (2013)
Mỹ Mở rộngV4 (2012)
Thế vận hộiV2 (2012)
Đánh đôi
Thắng/Thua48-56
Số danh hiệu0 WTA, 2 ITF
Thứ hạng cao nhất82 (17.3.2014)
Thứ hạng hiện tại134 (18.9.2017)[1]
Thành tích đánh đôi Gland Slam
Úc Mở rộngTK (2010)
WimbledonV2 (2009, 2013), 2017)
Mỹ Mở rộngV1 (2012)
Kết quả đôi nam nữ Grand Slam
WimbledonV3 (2012)
Giải đôi nam nữ khác
Thế vận hội Huy chương bạc (2012)
Giải đồng đội
Fed Cup9-3
Hopman CupCK (2010)
Cập nhật lần cuối: 18 tháng 9 năm 2017.

Laura Robson (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1994) là một vận động viên quần vợt người Anh. Cô chính thức bắt đầu thi đấu trong hệ thống giải trẻ của Liên đoàn quần vợt quốc tế (ITF) vào năm 2007, và một năm sau đó vô địch nội dung đơn nữ trẻ Wimbledon ở tuổi 14. Cô cũng lọt vào chung kết nội dung đơn nữ trẻ của Úc Mở rộng trong hai năm 20092010. Cô giành chức vô địch chuyên nghiệp đầu tiên năm 2008.

Trong sự nghiệp Robson đạt cao nhất ở vị trí thứ 27 vào ngày 8 tháng 7 năm 2013. Cô rút lui khỏi bảng xếp hạng WTA đầu năm 2015 vì chấn thương cổ tay mắc phải đầu mùa giải 2014. Cô trở lại ở vị trí thứ 906 vào tháng 7 năm 2015 và hiện xếp hạng 173 thế giới. Cô xếp hạng đôi nữ cao nhất ở vị trí thứ 82 và hiện đứng thứ 177.[1] Cô giành huy chương bạc nội dung đôi nam nữ ở Thế vận hội Mùa hè 2012 cùng Andy Murray, người trước đó cũng cùng cô vào tới chung kết Hopman Cup 2010.

Robson đã xuất hiện tại vòng đấu chính nội dung đơn của tất cả các giải Grand Slam.

Những năm đầu đời

Laura Robson sinh tại thành phố Melbourne nước Úc. Cô là con thứ tư trong gia đình và có cha Andrew là một giám đốc điều hành hãng dầu khí Royal Dutch Shell[8] và mẹ Kathy là một huấn luyện viên thể thao và cựu vận động viên bóng rổ.[9] Laura và gia đình chuyển từ Melbourne đến Singapore khi cô mười tám tháng tuổi, và sau đó đến Vương quốc Anh khi cô lên sáu.[10]

Sự nghiệp trẻ

Theo cha mẹ của cô thì cô bắt đầu chơi quần vợt "ngay khi cô có thể giữ một cây vợt tennis",[11] và sau khi được sự động viên, khuyến khích của gia đình, cô bước vào nghiệp banh nỉ tại một học viện quần vợt cơ sở lúc 7 tuổi.[12] Cô ký hợp đồng với công ty quản lý Octagon năm 10 tuổi,[13] ký với Adidas một năm sau đó,[14] cũng như hợp đồng cung cấp vợt với công ty Wilson Sporting Goods.[13]

Sau khi làm việc cùng nhiều huấn luyện viên, trong đó có cả Carl Maes, người đứng đầu Hiệp hội quần vợt Anh (Lawn Tennis Association), cô chọn Martijn Bok làm huấn luyện viên vào năm 2007.[12] Bok sau đó nhận xét rằng mặc dù Robson "khó kiểm soát về mặt cảm xúc", ông vẫn "nhìn thấy ngay [...] tiềm năng lớn của Laura."[12] Robson cũng bắt đầu tập luyện ở Trung tâm quần vợt quốc gia,[11] dưới sự hướng dẫn của Bok, Maes, và người đứng đầu về quần vợt nữ của trung tâm là Nigel Sears,[12] dù vẫn phải học văn hóa tại nhà.[8]

Robson tại Wimbledon 2008

Giải đấu ITF trẻ đầu tiên của Robson diễn ra vào tháng 5 năm 2007, nơi cô bắt đầu thi đấu từ vòng loại và kết thúc giải tại tứ kết.[15] Cô lọt vào chung kết hai giải đấu khác trong năm 2007, và giành chức vô địch đầu tiên vào tháng 10.[15] Trong nửa đầu 2008, Robson vào tới chung kết ba giải, nhưng cũng bị loại trước vòng 3 ở ba giải liên tiếp.[15] Robson thi đấu giải grand slam trẻ đầu tiên tại nội dung đơn nữ trẻ Wimbledon (không được xếp hạng hạt giống.[16] Dù là người trẻ nhất tại giải[17] cô vẫn vượt qua hạt giống số một Melanie Oudin[18] trên đường tới trận chung kết, nơi cô vượt qua hạt giống số 3 Noppawan Lertcheewakarn.[17] Cô trở thành vận động viên Anh Quốc đầu tiên chiến thắng nội dung nữ trẻ Wimbledon kể từ Annabel Croft năm 1984, và được giới truyền thông Anh gọi là "đứa con cưng mới" ("new darling") của quần vợt Anh[19] hay "Nữ hoàng Wimbledon".[20]

Sau một thời gian ngắn thi đấu ở hệ thống giải chuyên nghiệp, Robson trở lại thi đấu ở tuyến trẻ nhưng bị loại ở vòng 2 một giải đấu vào tháng 12.[15] Cũng trong tháng 12 cô thi đấu giải trẻ cuối cùng của năm 2008, giải Orange Bowl, tuy nhiên cô bỏ cuộc ở vòng ba vì chấn thương cơ bụng.[21] Cuối năm này, cô có tên trong danh sách rút gọn cho giải thưởng BBC Young Sports Personality of the Year,[22] nhưng để lỡ vào tay vận động viên bơi khuyết tật Eleanor Simmonds.[23]

Robson tại giải Úc Mở rộng 2009

Sau khi hồi phục chấn thương, Robson dự nội dung trẻ Úc Mở rộng 2009 và được xếp làm hạt giống số 5. Cô tiếp tục đánh bại đối thủ tại Wimbledon, Noppawan Lertcheewakarn, trong hai set ở trận bán kết,[24] để lọt vào chung kết Grand Slam trẻ thứ hai. Tuy nhiên Robson lại để thua hạt giống số ba Ksenia Pervak của Nga trong trận chung kết[25]. Sau giải đấu này, Robson bắt đầu tập với Gil Reyes, huấn luyện viên cũ của Andre Agassi.[14] Cô cũng nhận giải Vận động viên nữ trẻ của năm (MCC Young Sportswoman of the Year).[26] Cô đạt vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng trẻ ITF vào tháng 4, dù không thi đấu 2 tháng vì đau xương cẳng chân.[27]

Tại Roland-Garros 2009 Robson là hạt giống số một nội dung đơn nữ trẻ, nhưng thất bại vòng hai trước Sandra Zaniewska. Robson bước vào Giải quần vợt Wimbledon 2009 với tư cách đương kim vô địch, nhưng thua Quirine Lemoine ở vòng hai. Do tập trung vào các giải chuyên nghiệp, Robson không được xếp hạng hạt giống ở US Open 2009. Cô đánh bại Ons Jabeur của Tunisia ở vòng một, loại hạt giống thứ 7 người Mỹ Lauren Embree trong ba set ở vòng hai. Cô tiếp tục chiến thắng hạt giống số 12 Tamaryn Hendler trong hai set và đánh bại Lauren Davis ở tứ kết. Tại bán kết cô gặp Yana Buchina của Nga. Mặc dù khởi đầu mạnh mẽ nhưng do suy giảm thể lực (thi đấu bán kết và chung kết trong cùng một ngày) cô gác vợt trong ba set.

Tại nội dung đơn trẻ của Giải quần vợt Úc Mở rộng 2010, Robson tuy không được xếp hạng hạt giống nhưng vẫn vượt qua Belinda Woolcock, Yulia Putintseva, Cristina Dinu, Ester GoldfeldKristýna Plíšková để bước vào trận chung kết đơn nữ trẻ Úc Mở rộng. Tuy nhiên cô bị người chị em sinh đôi của Kristýna là Karolína Plíšková đánh bại tại chung kết.[28] Tại nội dung trẻ giải quần vợt Wimbledon 2010 cô dừng bước tại bán kết sau thất bại trước Ishizu Sachie của Nhật Bản.[29]

Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp

2008

Sau chức vô địch nội dung trẻ Wimbledon, Robson lần đầu thi đấu tại một giải ITF 10K ở Limoges, Pháp.[30] Cô chiến thắng hai trận vòng loại và trận đấu tại vòng một, trước khi bỏ cuộc tại vòng hai vì đau vai.[31]

Robson được đặc cách vào vòng đấu chính của giải ITF 75K ở Shrewsbury, Anh.[32] Sau khi đánh bại nhà vô địch đơn nữ trẻ Wimbledon 2007 Urszula Radwańska và hạt giống thứ tư Tzipi Obziler,[31] Robson thua hạt giống số 2 Maret Ani sau ba set ở bán kết.[33][34] Cô tiếp tục được đặc cách tại một giải 50.000$ ở Barnstaple, nhưng thua ngay ở vòng đầu trước hạt giống số 7 Angelique Kerber,[35] người sau đó phát biểu rằng "cách cô ấy (Laura) thi đấu thật khó tin".[36]

Robson có giải đấu đầu tiên thuộc hệ thống giải WTA sau khi được trao quyền đặc cách tại giải Fortis Championships 2008Thành phố Luxembourg. Cô được xếp thi đấu với đối thủ hạng 42 thế giới, Iveta Benešová tại vòng một tuy nhiên không thể gây bất ngờ.[35] Trở lại với ITF, Robson được phân hạt giống số 5 tại giải đấu 10.000$ ở Sunderland.[37] Sau khi vượt qua hạt giống số 3 Laura-Ioana Andrei ở tứ kết, cô liên tiếp đánh bại các tay vợt đồng hương Tara Moore và Samantha Vickers mà không để thua một set nào, qua đó có danh hiệu ITF Senior đầu tiên khi mới 14 tuổi 9 tháng.[37][38]

2009

Sau nửa đầu năm thi đấu trở lại tại hế thống ITF Junior, vào ngày 9 tháng 6, giải Wimbledon thông báo Robson được trao wildcard để dự nội dung đơn nữ của Wimbledon 2009.[39] Cô đối đầu với đối thủ hạng 5 thế giới Daniela Hantuchová ở vòng một. Tuy nhiên cô vẫn phải nhận thất bại dù đã chiến thắng set đầu và vươn lên dẫn trước 2-0 ở set hai. Cô cũng thi đấu ở nội dung đôi nữ với Georgie Stoop, vào tới vòng hai trước khi thua cặp hạt giống số 16 Svetlana KuznetsovaAmélie Mauresmo.

Vào tháng 8 năm 2009, Robson nhận được wildcard thi đấu vòng loại US Open 2009. Cô hạ Stéphanie Foretz của Pháp ở vòng một trong hai set,[40] và loại Anikó Kapros của Hungary.[41] Ở trận đấu vòng loại cuối cùng, cô bị chặn đứng bởi Eva Hrdinová dù dẫn 4-1 ở set 3.[42]

Robson tham dự vòng loại Luxembourg Open vào tháng 10. Cô lần lượt đánh bại Zuzana Ondrášková (hạng 180 thế giới) và Julia Görges (hạng 79 thế giới) ở hai trận vòng loại đầu tiên.[43] Tuy nhiên ở vòng loại cuối cô lại thua trước Maria Elena Camerin.[44] Tại giải đấu ITF ở Minsk cô lần lượt hạ Yuliya Beygelzimer ở vòng một[45] Tetyana Arefyeva ở vòng hai[46] trước khi dừng chân tại tứ kết trước Vitalia Diatchenko.[47]

2010

Robson tại Hopman Cup 2010

Robson khởi động năm 2010 bằng việc đánh cặp cùng Andy Murray tại Hopman Cup, trở thánh cặp đôi đầu tiên của Liên hiệp Anh tham dự giải kể từ 1992. Cô để thua Yaroslava Shvedova của Kazakhstan trong trận đầu tiên. Tuy vậy cô vẫn cùng Murray có chiến thắng chung cuộc trước Kazakhstan nhờ thắng trận đánh đôi. Robson để thua Sabine Lisicki của Đức nhưng chiến thắng trong trận đánh đôi. Robson và Murray sau đó đánh bại Nga để tiến vào trận chung kết. Mặc dù có chiến thắng đầu tiên tại giải trước tay vợt số 26 thế giới María José Martínez Sánchez, Robson và Murray vẫn không thể vượt qua đội tuyển Tây Ban Nha của Martínez Sánchez và Tommy Robredo.[48]

Robson được trao suất đặc cách dự vòng loại đơn nữ của giải Úc Mở rộng. Trong trận đấu đầu tiên của vượt qua đối thủ chủ nhà Sophie Ferguson.[49] Cô dừng bước ở trận đấu thứ hai trước Michaëlla Krajicek của Hà Lan. Robson cũng nhận được suất đặc cách dự vòng đấu chính nội dung đôi nữ cùng Sally Peers. Họ đánh bại lần lượt cặp Jill CraybasAbigail Spears ở vòng một và cặp Trang Giai DungKvěta Peschke ở vòng hai. Peers và Robson giành chién thắng ở vòng ba trước Vera Dushevina của Nga và Anastasia Rodionova của Úc để lọt vào tứ kết. Tại đây họ thua cặp hạt giống số 15 Maria KirilenkoAgnieszka Radwańska.[50]

Vào tháng tư, Robson để thua tại bán kết trước Edina Gallovits tại một giải ITF ở Dothan. Tại nội dung đôi cô vào tới tứ kết và đạt được thứ hạng đánh đôi cao nhất trong sự nghiệp (vị trí thứ 102) trên bảng xếp hạng WTA.[51] Cô vào tới tứ kết tại giải đấu ở Charlottesville.

Cô vượt qua vòng loại để lọt vào vòng đấu chính của giải Aegon ClassicEdgbaston trước các đối thủ Nina BratchikovaVitalia Diatchenko. Robson có trận thắng đầu tiên trong hệ thống giải WTA sau khi đối thủ Stefanie Vögele bỏ cuộc ở set 2 vòng đấu đầu tiên. Tuy nhiên ở vòng đấu tiếp theo cô bị hạt giống số ba Yanina Wickmayer vượt qua.[52] Cô cũng được đặc cách dự giải UNICEF OpenRosmalen nhưng bị loại ở vòng một bởi Dominika Cibulková.

Cô nhận được wildcard để thi đấu tại giải Wimbledon, tuy nhiên bị loại ở vòng đầu sau hai set trước đối thủ vượt trội về đảng cấp là Jelena Janković[53][54] Robson vào tới tứ kết một giải Aegon GB Pro-Series ở Woking với tư cách hạt giống số bảy, giải đấu chuyên nghiệp đầu tiên cô được xếp hạng hạt giống.[55] Vào cuối tháng 8 cô tham dự vòng loại đơn nữ Mỹ Mở rộng 2010. Cô gây bất ngờ khi loại Jelena Dokić ở vòng một. Cô sau đó tiếp tục đánh bại Vesna Manasieva, nhưng bị loại bởi Nuria Llagostera Vives ở vòng ba. Tại Toray Pan Pacific Open cô hạ gục hạng 57 thế giới Anastasija Sevastova ở vòng loại thứ nhất và lọt vào vòng đấu chính thức sau trận thắng trước Simona Halep. Tuy nhiên cô bị loại tại vòng một bởi đối thủ kỳ cựu Gréta Arn người Hungary.

2011

Đầu năm 2011 Robson thuê Patrick Mouratoglou người Pháp làm huấn luyện viên mới, và di chuyển sang Paris để tập luyện.[56] Tuy nhiên cô không thể bắt đầu mùa giải mới do chấn thương gặp phải ở Hopman Cup 2011[57] và phải nghỉ tới tận tháng 3. Tuy nhiên cô tiếp tục ngồi ngoài vì chấn thương ở giải đấu thứ hai trong năm. Cuối tháng 4, Robson vào tới bán kết giải đấu ITF 50K ở Indian Harbor Beach, Florida. Robson chia tay Mouratoglou ngay trước thềm giải Wimbledon 2011.[58] Cô có chiến thắng đầu tiên tại một giải đấu Grand Slam sau khi vượt qua Angelique Kerber, nhưng thua trước Maria Sharapova ở vòng hai.[59]

Tại giải Mỹ Mở rộng 2011, Robson vượt qua ba trận vòng loại để tiến vào vòng đấu chính.[60] Cô vượt qua vòng một sau khi đối thủ Morita Ayumi không thể tiếp tục thi đấu[61] nhưng sau đó lại để thua Anabel Medina Garrigues ở vòng hai.

2012: Chung kết WTA đầu tiên, huy chương Thế vận hội

Laura Robson tại Mỹ Mở rộng 2012

Laura Robson lọt vào vòng đấu chính của Úc Mở rộng 2012 sau khi vượt qua vòng loại trước các tay vợt Melanie Oudin, Anna FlorisOlga Savchuk để làn đầu lọt vao vòng đấu chính. Cô dừng bước tại vòng ba sau khi thua Jelena Janković với các tỉ số 2-6 và 0-6.

Laura Robson cùng đồng đội ăn mừng sau chiến thắng trước đội tuyển Áo tại Fed Cup 2012

Robson lần đầu trong sự nghiệp được gọi lên đội tuyển Fed Cup Vương quốc Anh thi đấu trọng trận đấu thuộc Nhóm I Khu vực châu Âu/châu Phi tại Eilat, Israel, từ ngày 1 tới 4 tháng 2 năm 2012. Ở giai đoạn vòng bảng cô cùng Heather Watson đánh bại các cặp đôi của Bồ Đào Nha,[62] Hà Lan[63] và Israel. Các chiến thắng này góp phần vào việc Vương quốc Anh đoạt suất thi đấu trận tranh vé lên chơi tại Bảng Thế giới II vào tháng 4.[64]

Cô thất bại tại vòng đấu cuối cùng của vòng loại Pháp Mở rộng 2012. Tuy nhiên cô vẫn có mặt ở vòng đấu chính với tư cách là lucky loser khi Sílvia Soler Espinosa bỏ cuộc, nhưng để chiến thắng vòng đầu vào tay chuyên gia sân đất nện Anabel Medina Garrigues.[65] Sau trận thua tại vòng 2 Aegon ClassicBirmingham trước Marina Erakovic, Robson vượt qua vòng loại giải Aegon International 2012. Cô tiếp tục dừng chân tại vòng 2, lần này trước Ekaterina Makarova. Tuy nhiên kết quả này giúp cô lọt vào top 100 lần đầu tiên trong sự nghiệp. Tại vòng một Wimbledon, Robson bị loại Francesca Schiavone sau ba set.[66]

Sau Wimbledon, cô tiếp tục dự giải XXV Italiacom OpenPalermo, nơi cô có trận bán kết WTA đầu tiên trong sự nghiệp. Sau khi nhanh chóng vượt qua Valentyna Ivakhnenko ở vòng một, cô gây bất ngờ khi loại hạt giống số 2 và hạng 27 thế giới, Roberta Vinci sau hai set để lọt vào tứ kết WTA đầu tiên.[67] Cô tiếp tục phong độ ấn tượng khi vượt qua hạt giống số 5 Carla Suárez Navarro sau ba set.[68] Tuy nhiên cô bị chặn lại tại bán kết bởi Barbora Strýcová sau ba set.[69] Robson cũng nhận được suất đặc cách vào vòng chính của Swedish Open 2012 nhưng thua ở trận ra quân trước Anabel Medina Garrigues.

Robson và Andy Murray tại nội dung đôi nam nữ Thế vận hội Mùa hè 2012.

Cô nhận được suất dự Thế vận hội 2012 tại Luân Đôn sau khi Petra Martić của Croatia xin bỏ cuộc.[70] Trong trận đấu đầu tiên cô đánh bại tay vợt số 22 thế giới Lucie Šafářová sau hai set để tiến vào vòng hai gặp Maria Sharapova.[71] Cô đã không thể gây bất ngờ nào trước đối thủ hạng 3 thế giới trong một trận đấu kịch tính.[72] Cô cũng thi đấu tại nội dung đôi nữ với Heather Watson, nhưng thất bại ở vòng một trước cặp vận động viên Đức Angelique KerberSabine Lisicki.[73] Cô sau đó nhận được suất đặc cách thi đấu nội dung đôi nam nữ cùng Andy Murray. Họ gặp Lucie HradeckáRadek Štěpánek của Cộng hòa Séc ở vòng một và thắng sau ba set. Tại vòng hai họ loại đôi vợt người Úc Lleyton HewittSamantha Stosur,[74] và lọt vào chung kết sau khi vượt qua Sabine Lisicki và Christopher Kas của CHLB Đức.[75] Họ chỉ có thể giành huy chương bạc sau khi thua cặp đôi của Belarus Victoria AzarenkaMax Mirnyi trong trận đấu cuối cùng.[76]

Robson vào thẳng vòng đấu chính của Mỹ Mở rộng 2012 nhờ thú hạng trên bảng xếp hạng WTA. Cô hạ vận động viên chủ nhà Samantha Crawford ở vòng một. Cô đánh bại cựu vô địch của giải là Kim Clijsters trong trận đấu đơn cuối cùng trong sự nghiệp của Clijsters trước khi quyết định giải nghệ.[77] Robson lần đầu lọt vào vòng ba một giải Grand Slam trong sự nghiệp khi và cùng với Serena Williams, Lindsay Davenport, Venus Williams, Amélie MauresmoJustine Henin là một trong 6 người duy nhất đánh bại được Clijsters tại US Open, và là người đầu tiên đánh bại tay vợt người Bỉ tại đây kể từ năm 2003. Cô tiếp tục phong đố tốt với chiến thắng đầu tiên trước một vận động viên trong top 10, hạt giống số 9 Lý Na ở vòng ba sau ba set.[78] Robson là tay vợt nữ của Anh đầu tiên vào tới vòng 4 một giải Grand Slam kể từ khi Samantha Smith vào tới vòng 4 của Wimbledon 14 năm trước. Tuy nhiên Robson để thua trước đương kim vô địch Samantha Stosur.

Giải đấu tiếp theo của Robson là Quảng Châu Mở rộng 2012 khi cô hạ các đối thủ mạnh như Trịnh Khiết và hạt giống số 3 Sorana Cîrstea trên đường vào trận chung kết WTA đầu tiên với Tạ Thục Vi của Đài Bắc Trung Quốc. Đây là chung kết WTA đầu tiên của một tay vợt người Anh kể từ lần cuối của Jo Durie vào năm 1990.[79] Robson sau đó chịu gác vợt dù cứu được 5 championship point ở set 2 và dẫn 3-0 ở set quyết định.[80] Kết quả đưa cô vào top 70 lần đầu tiên.[81]

Robson vượt qua vòng loại China Open 2012 và sau đó lọt vào tới vòng hai và thua trước Lourdes Domínguez Lino trong hai set. Tại giải HP Open ở Nhật Bản, cô được xếp là hạt giống số 8. Đây là lần đầu tiên cô được xếp hạng hạt giống ở một giải WTA.[82] Cô vào tới tứ kết và để thua Trương Khải Trinh trong ba set, tuy nhiên kết quả ở giải này giúp cô vươn lên vị trí thứ 53 sau khi kết thúc năm 2012.[83]

Vào tháng 10 Robson được đề cử cho giải "Nữ vận động viên của năm" của Hiệp hội các nhà báo thể thao Anh.[84] Một tháng sau cô cùng Heather Watson giành giải "Nữ vận động viên trẻ của năm" tại Sunday Times Sportswomen of the Year Awards 2012.[85] Cô cũng được đề cử giải "Newcomer of the Year" của WTA và "Sportswoman of the Year" của nhà cái William Hill vào tháng 11 năm 2012,[86] và nhận được giải thưởng thứ nhất.[87]

2013

Laura Robson tại giải Giải quần vợt Úc Mở rộng 2013.

Đầu năm 2003 Robson lần đầu đặt chân vào top 50 bảng xếp hạng WTA. Cô có chiến thắng đầu tiên tại giải Úc Mở rộng 2013 với chiến thắng thuyết phục sau hai set trước Melanie Oudin. Tại vòng hai cô phải đối đầu với cựu vô địch của giải là Petra Kvitová. Robson xuất sắc lội ngược dòng trước đối thủ để tiến vào vòng đấu tiếp theo gặp Sloane Stephens của Hoa Kỳ. Robson thua nhanh chóng sau hai set vì chấn thương vai.[88] Sau giải đấu này cô thi đấu 6 trận cho đội tuyển Vương quốc Anh tại Fed Cup và giúp đội nhà giành vé dự trận play-off tranh suất lên chơi tại Bảng Thế giới II gặp Argentina.[89] Sau thành công này cô thua liên tiếp hai trận trước Daniela HantuchováDohaYulia PutintsevaDubai.[44]

Tại giải Indian Wells Robson tiếp tục thất thủ trước Sofia Arvidsson sau ba set ở vòng một. Tại nội dung đơn giải Miami Open cô dừng bước tại vòng hai sau khi thua Alizé Cornet. Tại nội dung đôi Laura Robson được đặc cách thi đấu cùng Lisa Raymond. Họ đánh bại Sara ErraniRoberta Vinci tại bán kết, trước khi thua Nadia PetrovaKatarina Srebotnik trong trận đấu chung kết.[90] Robson là hạt giống số 16 tại giải đấu ở Charleston. Cô vào tới vòng hai khi thua Eugenie Bouchard trong ba set. Cô là hạt giống số 8 tại Katowice Open nhưng thua ở vòng một trước Lourdes Domínguez Lino.[44]

Robson được triệu tập lên đội tuyển Fed Cup Vương quốc Anh để dự loạt trận play-off lên chơi tại Bảng Thế giới II gặp Argentina. Sau khi đồng đội Johanna Konta thua trận mở màn gặp Paula Ormaechea, Robson dễ dàng giành chiến thắng trước Florencia Molinero. Tuy nhiên cô lại thua ở trận thứ hai gặp Paula Ormaechea sau ba set.[91]

Sau các trận thua tại các giải sân đất nện ở châu Âu, Robson đánh bại số 4 thế giới Agnieszka Radwańska ở vòng hai của Mutua Madrid Open 2013.[92] Cô sau đó chịu gác vợt trước Ana Ivanovic ở vòng đấu tiếp theo dù dẫn 5-2 ở set ba.[93] Cô có lần đầu dự giải Internazionali BNL d'Italia và ngay lập tức gây bất ngờ với chiến thắng trước Venus Williams ở vòng một. Tuy nhiên ngay sau đó để thua trước em của Venus và cũng là tay vợt số một thế giới Serena Williams. Tại giải Pháp Mở rộng 2013 Robson để thua ngay vòng một trước cựu số một thế giới Caroline Wozniacki sau hai set.

Để bắt đầu mùa giải sân cỏ, Robson tham dự Aegon Classic ở Birmingham nơi cô là hạt giống số 7. Mặc dù vậy cô thua ngay trận mở àn vòng hai trước tay vợt không được xếp hạng hạt giống và sau đó trở thành nhà vô địch của giải, Daniela Hantuchová. Cô tiếp tục dự Aegon International 2013. Cô vượt qua Yuliya Beygelzimer ở vòng một mà không thua set nào. Cô một lần nữa để thua Caroline Wozniacki trong hai set ở vòng hai.

Ở vòng một Wimbledon cô được xếp thi đấu với hạt giống số 10 Maria Kirilenko và đánh bại đối phương trong 2 set. Cô tiếp tục vượt qua Mariana Duque ở vòng hai tại Sân Trung tâm. Ở vòng ba, cô lật ngược thế cờ sau khi thua một set trước Marina Erakovic để tiến vào vòng 4 nơi cô bị đánh bại bởi Kaia Kanepi. Màn trình diễn này giúp cô leo lên vị trí 27 thế giới, trở thành người Anh đầu tiên lọt vào top 30 kể từ thời Jo Durie năm 1987.[94]

Robson khởi động chiến dịch US Open Series vào ngày 30 tháng 7 năm 2013 tại Southern California Open ở Carlsbad gặp Morita Ayumi, người cô lội ngược dòng đánh bại sau 2 giờ 40 phút thi đấu.[95] Cô phải đối đầu với hạng 7 thế giới Petra Kvitová của Cộng hòa Séc tại vòng 2 và để thua sau hai set.[96] Tại Canada Mở rộng ở Toronto, Robson dự kiến thi đấu với Yanina Wickmayer của Bỉ vào ngày 5 tháng 8 ở trận mở màn nhưng buộc phải bỏ cuộc vì chấn thương cổ tay.[97] Chấn thương cũng khiến cô rút lui khỏi Cincinnati, tuy nhiên thứ hạng 32 giúp cô lần đầu triên trong đời được xếp hạng hạt giống tại một giải Grand Slam, cụ thể là hạt giống số 30 tại Mỹ Mở rộng 2013.

Tại Mỹ Mở rộng 2013, Robson trở lại sau quãng thời gian phục hồi chấn thương cổ tay và bắt đầu giải bằng trận đấu với Lourdes Domínguez Lino, người cô từng thua cả hai lần đối đầu. Sau thắng lợi khó khăn ở set một, Robson dễ dàng giành bagel ở set hai.[98] Ở vòng hai, Robson nhọc nhằn vượt qua Caroline Garcia của Pháp sau hai set.[99] Robson sau đó dừng bước ở vòng ba trước Lý Na sau hai set.[100]

Robson sau đó dự giải Quảng Châu Mở rộng mà đang là đương kim á quân. Cô nhẹ nhàng vượt qua Jovana JakšićTrình Trại Trại ở hai vòng đầu tiên. Tuy nhiên cô dừng bước trước đối thủ chủ nhà Trịnh Khiết, dù có chiến thắng 6-1 ở set đầu.

2014-15: Chấn thương cổ tay và sự vắng mặt dài hạn

Robson bắt đầu mùa giải 2014 với giải Hobart InternationalHobart, nơi cô buộc phải bỏ cuộc ở vòng một gặp Yanina Wickmayer do chấn thương cổ tay. Cổ tay của cô tiếp tục khiến cô gặp khó khăn tại Úc Mở rộng 2014, nơi cô bị Kirsten Flipkens hạ gục sau hai set. Sau khi nghỉ ba tháng không tham gia các giải đấu nào, Robson tiến hành phẫu thuạt cổ tay trái vào tháng 4.[101] Cô buộc phải bỏ lỡ các giải Pháp Mở rộng, WimbledonMỹ Mở rộng. Robson ban đầu hy vọng sẽ trở lại vào cuối mùa giải,[102] tuy nhiên cô chỉ tập luyện trở lại vào tháng 10 mà không tham dự bất cứ một giải đấu nào nữa trong năm 2014.

Laura Robson tại Aegon International 2015

Robson không tham dự Giải quần vợt Úc Mở rộng 2015 và vắng mặt trên BXH của WTA vì không thi đấu trong suốt 12 tháng.[103] Robson dự định trở lại tại giải ITF 25K$ ở Surprise, Arizona, nhưng hủy bỏ và sau đó bỏ lỡ thêm một giải ITF vào tháng 2.[104] Cô tiếp tục từ chối suất đặc cách tại Miami Open vào tháng 3. Người đại diên của cô thông báo cô không hề có ý rút lui mà cô đang sắp sửa trở lại.[105]

Tháng sáu năm 2015, sau hơn một năm rưỡi vắng mặt, Robson chính thức trở lại tại Aegon International 2015Eastbourne. Cô để thua trước hạt giống số 1 Daria Gavrilova sau hai set.[106] Robson được trao wildcard để thi đấu tại Wimbledon,[107] nhưng thua ngay tại vòng một trước Evgeniya Rodina.[108]

Vào tháng 7 năm 2015 cô thi đấu tại một giải ITF 50.000$ ở Granby và giành chiến thắng vất vả trước Osaka Naomi. Tuy nhiên cô thất bại ở trận đấu tiếp theo trước Ellie Halbauer. Robson vào tới chung kết nội dung đôi giải đấu này cùng Erin Routliffe. Tại giải ITF Gatineau, cô bỏ cuộc trong trận đấu vòng một. Tuy nhiên Robson xác nhận đây không phải chấn thương cổ tay mà là chấn thương cơ bụng mà cô mắc trong khi tập luyện.

Cô tiếp tục dự Mỹ Mở rộng 2015 từ vòng một nhờ thành tích thi đấu tại Mỹ Mở rộng 2013 được bảo toàn. Tuy nhiên cô thất bại trước Elena Vesnina của Nga ở vòng một dù dẫn 4-0 ở set ba.[109]

2016: Trở lại với quần vợt

Sau phẫu thuật nhằm loại triệt để chấn thương cổ tay Laura Robson tiếp tục nghỉ thi đấu thêm một thời gian vầ lỡ Úc Mở rộng. Robson bắt đầu năm 2016 tại một số giải challenger ở Hoa Kỳ nhưng không đạt nhiều thành công. Cô trở lại các giải WTA nhờ sử dụng protected ranking (PR — thứ hạng bảo toàn trước khi nghỉ thi đấu) với điểm dừng chân đầu tiên là Indian Wells. Cô để thua Magdaléna Rybáriková ở vòng đầu. Cô cũng có một suất wildcard vào vòng đấu chính của Miami Mở rộng và sử dụng PR để dự Charleston nhưng vẫn tiếp tục gặp thất bại vòng một ở cả hai giải.

Robson có trận thắng WTA đầu tiên kể từ năm 2013 trước Klára Koukalová ở vòng loại giải Stuttgart. Tuy nhiên cô để thua trận loại tiếp theo trước Océane Dodin sau hai set. Robson có chiến thắng đầu tiên tại vòng chính một giải WTA kể từ năm 2013 khi vượt qua Ghita Benhadi tại giải Grand Prix SAR La Princesse Lalla MeryemMarrakech, Maroc.[110] Cô để thua Tímea Babos ở trận đấu vòng hai.

Robson cũng sử dụng thứ hạng bảo toàn để tham dự các giải đất nện Premier ở Madrid và Roma nhưng lần lượt gác vợt ở vòng một dưới tay của Victoria AzarenkaChristina McHale. Robson nhận suất wildcard tại Wimbledon năm thứ hai liên tiếp nhưng thất bại ở vòng một sau 69 phút thi đấu trước Angelique Kerber.[111]

Vào tháng 8 Robson giành hai chức vô địch nội dung đơn và đôi ở giải ITF cấp 2 ở Mỹ.[112] Cô được đặc cách vào thẳng vòng loại nội dung đơn Mỹ Mở rộng 2016. Các chiến thắng trướcJang Su-jeong,[113] Isabella Shinikova[114] và Tatjana Maria[115] giúp cô tiến vào loạt đấu chính của giải, tuy nhiên dừng bước ngay ở vòng 1 trước đồng hương Naomi Broady với các tỉ số 7–6, 3–6, 4–6.

Cô sau đó tiếp tục tranh tài ở sáu giải ITF, tuy nhiên chỉ vào đến tứ tết tại một giải.[116]

2017: Danh hiệu ITF 60K

Robson khởi động mùa giải 2017 với giải WTA InternationalAuckland, nhưng chịu thất bại ở vòng loại một trước Tereza Martincová.[117] Tại Giải quần vợt Úc Mở rộng 2017, cô để thua Amandine Hesse tại vòng loại thứ nhất sau hai set.[118] Tại giải ITF 60K ở Andrézieux-Bouthéon, Robson lọt vào đến tứ kết và chịu dừng bước trước Amra Sadiković sau hai set.[119] Between the end of January and the beginning of May, Robson reached three quarter-finals on the ITF Circuit.[116] Robson giành danh hiệu lớn nhất từ đầu sự nghiệp tại giải ITF 60K tại Kurume sau khi hạ đồng hương Katie Boulter ở chung kết trong hai séc.[120] Chức vô địch giúp cô tăng thêm 80 bậc trên bảng xếp hạng và lần đầu tiên trở lại top 200 kể từ năm 2014.

Vào đầu mùa giải sân cỏ, Robson tham gia giải ITF 100.000 tại Surbiton, nhưng gác vợt tại vòng một trước Marina Erakovic.[121] Cô tiếp tục dự Nottingham WTA International, nhưng gục ngã cũng tại vòng một trước Julia Boserup.[122] Cô lọt vào vòng hai ITF 100.000 ở Ilkley nhưng chịu dừng bước trước Anna Blinkova trong ba set.[123] Cô nhận suất wildcard tại Wimbledon 2017, nhưng nhanh chóng bị loại tại vòng một trước Beatriz Haddad Maia của Brasil.[124]

Phong cách thi đấu

Laura Robson thuận tay trái,[125] trái tay bằng cả hai tay. Một trong các điểm mạnh của cô là cú phát bóng "áp đảo".[125] Cô thi đấu chắc chắn ở cuối sân và được đánh giá cao ở những cú trả giao bóng thuận tay mạnh mẽ. Tuy nhiên cô bị chỉ trích vì khả năng "di chuyển ngang tệ hại",[126] cũng như những nhưng pha giao bóng hai không ổn định dẫn tới nhiều lỗi kép.[127] Cô được khen ngợi vì thể hiện "sự đĩnh đạc phi thường",[126] và sở hữu "tư thế và kỹ thuật cần thiết của một vận động viên hàng đầu".[128] Nhà bình luận Simon Reed nói rằng cô "có mọi thứ mà mình cần",[129] còn nhà cựu vô địch Grand Slam Pat Cash coi cô là "một tài năng đặc biệt".[130]

Thống kê sự nghiệp

Thế vận hội: 1 (0-1)

Đôi nam nữ: 1 (0-1)

Kết quả Năm Giải Mặt sân Người đánh cặp Đối thủ Tỉ số
Huy chương bạc 2012 Thế vận hội Luân Đôn Cỏ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Andy Murray Belarus Victoria Azarenka
Belarus Max Mirnyi
6-2, 3-6, [8-10]

Tiến trình thi đấu

Chú giải
 CK  BK TK V# RR Q# A Z# PO G F-S SF-B NMS NH
(VĐ) Vô địch giải; vào tới (CK) chung kết, (BK) bán kết, (TK) tứ kết; (V#) các vòng 4, 3, 2, 1; thi đấu (RR) vòng bảng; vào tới vòng loại (Q#) vòng loại chính, 2, 1; (A) không tham dự giải; thi đấu tại (Z#) Nhóm khu vực (chỉ ra số nhóm) hoặc (PO) play-off Davis/Fed Cup; giành huy chương (G) vàng, (F-S) bạc hay (SF-B) đồng tại Olympic; Một giải (NMS) Masters Series/1000 bị giáng cấp; hoặc (NH) giải không tổ chức. SR=tỉ lệ vô địch (số chức vô địch/số giải đấu)
Để tránh nhầm lẫn hoặc tính thừa, bảng biểu cần được cập nhật khi giải đấu kết thúc hoặc vận động viên đã kết thúc quá trình thi đấu tại giải.

Đơn nữ

Giải 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 T-B % thắng
Các giải Grand Slam
Úc Mở rộng A Q2 A V1 V3 V1 A A Q1 2-3 40%
Pháp Mở rộng A A A V1 V1 A A V1 A 0-3 0%
Wimbledon V1 V1 V2 V1 V4 A V1 V1 V1 4-8 33%
Mỹ Mở rộng Q3 Q3 V2 V4 V3 A V1 V1 Q1 6-5 55%
Thắng-Thua 0-1 0-1 2-2 3-4 7-4 0-1 0-2 0-3 0–1 12-19 38%
Thế vận hội
Thế vận hội Mùa hè Không tổ chức V2 Không tổ chức A KTC 1-1 50%
Giải vô địch cuối năm
WTA Finals Không đủ điều kiện tham dự 0-0 0%
Các giải WTA Premier Mandatory
Indian Wells A A A Q1 V1 A A V1 A 0-2 0%
Miami A A A Q2 V2 A A V1 A 1-2 33%
Madrid A A A A V3 A V3 V1 A 2-2 50%
Bắc Kinh A A V1 V2 V2 A A A 2-3 40%
WTA Premier 5
Doha / Dubai A A A Q1 V1 A A A A 0-1 0%
Roma A A A A V2 A A Q1 A 1-1 50%
Canada A A A A A A A A A 0-0 0%
Cincinnati A A Q1 Q2 A A A A 0-0 0%
Vũ Hán NH A A A 0-0 0%
Thống kê sự nghiệp
Số danh hiệu 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Số trận chung kết 0 0 0 1 0 0 0 0 0 1
Xếp hạng cuối năm 419 206 131 53 46 951 558 222

Chung kết Grand Slam trẻ: 3 (1-2)

Kết quả STT. Ngày Giải Mặt sân Đối thủ Tỉ số
Vô địch 1 3/7/2008 Wimbledon 2008 Cỏ Thái Lan Noppawan Lertcheewakarn 6-3, 3-6, 6-1
Á quân 2 31/1/2009 Úc Mở rộng 2009 Cứng Nga Ksenia Pervak 3-6, 1-6
Á quân 3 30/1/2010 Úc Mở rộng 2010 Cứng Cộng hòa Séc Karolína Plíšková 1-6, 6-7(5-7)

Chú thích

  1. ^ a b c Laura Robson tại Hiệp hội quần vợt nữ
  2. ^ “BBC Sport - Laura Robson parts with coach Patrick Mouratoglou”. BBC Sport.
  3. ^ “BBC Sport - Laura Robson splits from coach Zeljko Krajan after nine months”. BBC Sport.
  4. ^ Piers Newbery. “BBC Sport - Laura Robson: Miles Maclagan to work with British number one”. BBC Sport.
  5. ^ a b “Laura Robson swaps coach again and opts for experience with Colombian Mauricio Hadad”. Telegraph.co.uk. ngày 6 tháng 3 năm 2014.
  6. ^ Russell Fuller. “BBC Sport - Laura Robson adds Mauricio Hadad to her coaching team”. BBC Sport.
  7. ^ “Laura Robson: WTA Rankings”. WTA.
  8. ^ a b “Things you didn't know about Laura Robson, the girl who became a star”. The Times. ngày 6 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2008.[liên kết hỏng]
  9. ^ Addley, Esther (ngày 5 tháng 7 năm 2008). “Never mind Murray. Look out for Laura”. The Guardian. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2008.
  10. ^ Bevan, Chris (ngày 3 tháng 7 năm 2008). “Robson flies flag for Britain”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2008.
  11. ^ a b “Laura Robson: The new darling of British tennis”. The Sunday Telegraph. ngày 30 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
  12. ^ a b c d Harman, Neil (ngày 7 tháng 7 năm 2008). “Newcastle owner could be key to Laura Robson future”. The Times. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  13. ^ a b Bierley, Steve (ngày 30 tháng 1 năm 2009). “Grounded Robson benefits from support as second major final beckons”. The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2009.
  14. ^ a b Flatman, Barry (ngày 1 tháng 2 năm 2009). “Laura Robson needs to toughen up”. The Times. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.[liên kết hỏng]
  15. ^ a b c d “Juniors - Player Activity: Laura Robson”. International Tennis Federation. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  16. ^ “Draws - Girls' Singles”. wimbledon.org. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2009.
  17. ^ a b Newbery, Piers (ngày 5 tháng 7 năm 2008). “Briton Robson wins girls' title”. BBC Sport. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  18. ^ Harman, Neil (ngày 4 tháng 7 năm 2008). “Spice girl Laura Robson moves into Wimbledon semifinal”. The Times. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2016.
  19. ^ Watterson, Johnny (ngày 9 tháng 7 năm 2008). “Reality will soon dawn for rising star”. The Irish Times. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2009.
  20. ^ Cheese, Caroline; Birch, Paul (ngày 7 tháng 7 năm 2008). “What now for Laura Robson?”. BBC Sport. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2009.
  21. ^ Hodgkinson, Mark (ngày 20 tháng 12 năm 2008). “Laura Robson is a doubt for Australian Open”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  22. ^ “Young Sports Personality: The top three”. BBC Sport. ngày 28 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2009.
  23. ^ “Sports Personality 2008”. BBC Sport. ngày 14 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2009.
  24. ^ “Australian Open 2009 Draws - Girls' Singles”. australianopen.com. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  25. ^ “Robson reaches Aussie Open final”. BBC Sport. ngày 30 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  26. ^ Maul, Rob (ngày 15 tháng 2 năm 2009). “School comes first for our young stars”. The Times. UK. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2009.[liên kết hỏng]
  27. ^ Harman, Neil (ngày 2 tháng 4 năm 2009). “Andy Murray backs Laura Robson to handle growing pains”. The Times. UK. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2009.[liên kết hỏng]
  28. ^ “Robson loses Aussie girls' final”. BBC News. ngày 30 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2010.
  29. ^ “Wimbledon 2010: Laura Robson suffers semi-final defeat”. The Daily Telegraph. ngày 2 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  30. ^ “$10,000 Limoges 2008”. ITF. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  31. ^ a b “Robson safely into LTA semi-final”. BBC Sport. ngày 26 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2009.
  32. ^ “Robson makes winning return”. Sporting Life. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  33. ^ “$75,000 Shrewsbury 2008”. ITF. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  34. ^ Hodgkinson, Mark (ngày 27 tháng 9 năm 2008). “Girls junior Wimbledon champion Laura Robson suffers semi-final loss in Shrewsbury”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  35. ^ a b “Robson handed Luxembourg wildcard”. BBC Sport. ngày 9 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2008.
  36. ^ Newman, Paul (ngày 9 tháng 10 năm 2008). “Robson secures rankings reward”. The Independent. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2009.
  37. ^ a b “$10,000 Sunderland Drawsheet”. ITF. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2016.
  38. ^ Hodgkinson, Mark (ngày 9 tháng 11 năm 2008). “Laura Robson enjoys her maiden senior title”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  39. ^ “Robson handed wildcard”. Sky Sports. ngày 9 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  40. ^ “Robson creates shock at US Open”. BBC Sport. ngày 26 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2009.
  41. ^ “Robson close to US Open qualification”. The Independent. Vương quốc Anh. ngày 28 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2009.
  42. ^ “Defeat ends Robson's US Open bid”. BBC Sport. ngày 29 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2009.
  43. ^ Newman, Paul (ngày 19 tháng 10 năm 2009). “Davydenko masters dogged Nadal”. The Independent. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2009.
  44. ^ a b c “Laura Robson Results”. WTA. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2013.
  45. ^ “Robson wins in Minsk”. Teletext. ngày 10 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2009.
  46. ^ “ITF Tennis - Pro Circuit - Player Profile - AREFYEVA, Tetyana (UKR)”. ITF. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  47. ^ “Robson knocked out in Minsk”. Teletext. ngày 13 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2009.
  48. ^ “Andy Murray and Laura Robson beaten in Hopman Cup final”. BBC Sport. ngày 9 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2010.
  49. ^ Draws - Women's Qualifying Singles - Australian Open Tennis Championships 2011 - The Grand Slam of Asia/Pacific - Official Site by IBM. Australianopen.com (30.1.2011).
  50. ^ “Teenager Robson beaten in doubles”. BBC News. ngày 27 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2010.
  51. ^ 26 tháng 4 năm 2010/Robson-climbs-to-career-high-ranking-after-semis-finish/ “Robson climbs to career high ranking” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Lawn Tennis Association. ngày 26 tháng 4 năm 2010. 26 tháng 4 năm 2010/Robson-climbs-to-career-high-ranking-after-semis-finish/ Lưu trữ Kiểm tra giá trị |archiveurl= (trợ giúp) bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2010.
  52. ^ “Laura Robson wins Aegon Classic opener in Birmingham”. BBC News. ngày 7 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  53. ^ Cambers, Simon (ngày 18 tháng 6 năm 2010). “Laura Robson eyes Wimbledon upset after draw pits her against Jankovic”. The Guardian.
  54. ^ Newbery, Piers (ngày 21 tháng 6 năm 2010). “Jankovic defeats battling Robson”. BBC News.
  55. ^ 12 tháng 7 năm 2010/This-Week-in-British-Tennis-Friday-16th-July/ This Week in British Tennis, Friday 16 July LTA.
  56. ^ “Laura Robson hires French coach Patrick Mouratoglou”. The Guardian. ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.
  57. ^ “Injured Laura Robson out of Australian Open & Fed Cup”. BBC Sport. ngày 9 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2013.
  58. ^ “Wimbledon 2011: Sam Smith on Laura Robson and Heather Watson”. BBC Sport. ngày 22 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.
  59. ^ Ornstein, David (ngày 22 tháng 6 năm 2011). “Wimbledon 2011: Laura Robson wins but Heather Watson eliminated”. BBC Sport. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.
  60. ^ Briggs, Simon (ngày 27 tháng 8 năm 2011). “US Open 2011: Laura Robson completes British quarter in Manhattan”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
  61. ^ Mitchell, Kevin (ngày 29 tháng 8 năm 2011). “US Open 2011: Laura Robson advances as Ayumi Morita retires”. The Guardian. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
  62. ^ “Great Britain defeat Portugal in Fed Cup match”. LTA. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  63. ^ “AEGON GB Fed Cup Team defeat Netherlands”. LTA. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  64. ^ “GB Fed Cup team progress to World Group II play-offs”. LTA. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  65. ^ “French Open: Laura Robson loses to Anabel Medina Garrigues”. BBC Sport. ngày 28 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2012.
  66. ^ “Laura Robson”. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
  67. ^ “XXV Italiacom Open: Laura Robson beats Roberta Vinci in straight sets”. BBC Sport. ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2012.
  68. ^ “Laura Robson beats Carla Suárez Navarro to reach first Tour semi-final”. The Guardian. ngày 13 tháng 7 năm 2012.
  69. ^ “Laura Robson beaten in semi-finals of Italiacom Open”. BBC Sport. ngày 14 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.
  70. ^ “GB Tennis: Laura Robson given late place in women's singles”. BBC Sport. ngày 27 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  71. ^ “Olympics tennis: Heather Watson & Laura Robson through”. BBC Sport. ngày 30 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  72. ^ “Andy Murray wins but Heather Watson & Laura Robson lose”. BBC Sport. ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012.
  73. ^ “Andy and Jamie Murray beaten in Olympic tennis doubles”. BBC Sport. ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  74. ^ “Andy Murray & Laura Robson earn Olympic mixed doubles spot”. BBC Sport. ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012.
  75. ^ “Laura Robson”. London2012.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2012.
  76. ^ “Andy Murray & Laura Robson take silver in Olympics final”. BBC Sport. ngày 5 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2012.
  77. ^ “Laura Robson stuns Kim Clijsters in US Open second round”. BBC Sport. ngày 30 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2012.
  78. ^ “US Open: Laura Robson upsets Li Na”. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
  79. ^ “Laura Robson through to Guangzhou WTA Final”. BBC Sport. ngày 21 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2012.
  80. ^ “BBC Sport - Laura Robson loses to Su-Wei Hsieh in Guangzhou Open final”. BBC Sport.
  81. ^ “Laura Robson loses to Su-Wei Hsieh in Guangzhou Open final”. BBC Sport. ngày 22 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
  82. ^ “HP Japan Women's Open Tennis 2012 - Ladies Singles Draw” (PDF). WTA. ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.
  83. ^ “Players - WTA Tennis English”. WTA. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
  84. ^ “SJA2012: The contenders. Who gets your vote?”. sportsjournalists.co.uk. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2012.
  85. ^ Watson and Robson honoured in London Lưu trữ 2013-04-23 tại Wayback Machine 10sballs.com. 9.11.2012. Truy cập 26.11.2012.
  86. ^ 2012 William Hill Sportswoman of the Year Lưu trữ 2016-01-14 tại Wayback Machine formstack.com. Truy cập 26.11.2012.
  87. ^ “WTA Player Awards: The Fan Favorites & More”. WTA. ngày 30 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2012.
  88. ^ “2013 Results”. CBS Sports. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2013.
  89. ^ “Fed Cup - Player Profile - Laura Robson”. Fed Cup. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2013.
  90. ^ “Laura Robson & Lisa Raymond lose Miami doubles final”. BBC Sport. ngày 31 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2013.
  91. ^ Briggs, Simon (ngày 21 tháng 4 năm 2013). “Laura Robson's surprise defeat sees Great Britain lose to Argentina and end Fed Cup World Group hopes”. The Telegraph. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  92. ^ “Laura Robson beats Agnieszka Radwanska at Madrid Open - Tennis News - ESPN.co.uk”. ESPN.co.uk.
  93. ^ “Laura Robson beaten in tiebreak by Ana Ivanovic at the Madrid Open”. Telegraph.co.uk. ngày 8 tháng 5 năm 2013.
  94. ^ “Roger Federer falls to fifth in world rankings after Wimbledon exit”.
  95. ^ “Laura battles through in carlsbad”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  96. ^ “Carlsbad comes to an end”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  97. ^ “Laura Robson pulls out of the Rogers Cup”.
  98. ^ “Laura Robson books place in second round”. BBC Sport. ngày 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  99. ^ “Laura Robson v Caroline Garcia LIVE”. BBC Sport. ngày 29 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  100. ^ “US Open 2013: Li avenges 2012's loss to Robson”. sportskeeda.com.
  101. ^ Mitchell, Kevin (ngày 17 tháng 4 năm 2014). “Laura Robson out of Wimbledon and French Open with injured wrist”. TheGuardian.com. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2015.
  102. ^ “Laura Robson targets Australian Open in January as she recovers from wrist surgery”. SkySports.com. ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2015.
  103. ^ “Former British No 1 Laura Robson withdraws from French Open”. Sky Sports. ngày 6 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  104. ^ Briggs, Simon (ngày 12 tháng 2 năm 2015). “Laura Robson forced to delay comeback from wrist injury”. Telegraph.co.uk. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2015.
  105. ^ “Laura Robson declines Miami Open qualifying wildcard”. BBC Sport. BBC. ngày 15 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2015.
  106. ^ Cambers, Simon (ngày 20 tháng 6 năm 2015). “Laura Robson looks ahead despite Daria Gavrilova's easy Eastbourne win”. The Observer. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  107. ^ “Wimbledon 2015: Laura Robson given wildcard”. BBC Sport. ngày 21 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  108. ^ “Wimbledon 2015: Heather Watson through but Laura Robson out”. BBC Sport. ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  109. ^ “US Open 2015: Johanna Konta's mind games win through while Laura Robson loses her head”. ngày 2 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  110. ^ “Robson shines in Rabat comeback”. WTA. ngày 27 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  111. ^ 27 tháng 6 năm 2016/kerber_too_strong_for_robson.html “Kerber crushes erratic Robson” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Wimbledon. ngày 27 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2017.
  112. ^ “Laura Robson: Ex-British number one wins Koser Jewelers Challenge”. BBC Sport. ngày 14 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2016.
  113. ^ “Laura Robson into US Open qualifying second round”. Mail Online. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  114. ^ “US Open: Laura Robson and Tara Moore reach second round of qualifying”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  115. ^ Association, Press (ngày 26 tháng 8 năm 2016). “Laura Robson qualifies for US Open with win over Tatjana Maria”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  116. ^ a b admin (ngày 27 tháng 6 năm 2017). “Laura Robson”. WTA Tennis (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  117. ^ s.r.o., eHM. “Tereza Martincova vs. Laura Robson 31.12.2016 - ASB Classic - Auckland - TennisLive.co.uk”. www.tennislive.co.uk (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  118. ^ “Australian Open 2017: Laura Robson defeated by Amandine Hesse in first round of qualifying”. The Telegraph (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  119. ^ “Andrézieux-Boutheon (ITF) - Brouleau battue, Robson OUT”. www.tennisactu.net (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  120. ^ “Laura Robson is back inside the top 200 after winning ITF 60k Kurume tournament”. The Independent (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  121. ^ “Aegon Surbiton Trophy - Daily round-up | Tennis in Britain”. www.lta.org.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  122. ^ “Qualifier Jana Fett causes upset as Brits take to Centre Court | Tennis in Britain”. www.lta.org.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  123. ^ “Aegon Ilkley Trophy: Daily updates from Ilkley Lawn Tennis and Squash Club | Tennis in Britain”. www.lta.org.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  124. ^ “Wimbledon 2017: Andy Murray to start title defence against Alexander Bublik”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). ngày 30 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  125. ^ a b Bierley, Steve (ngày 30 tháng 1 năm 2009). “Robson reaches Australian Open final”. The Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
  126. ^ a b Pitt, Nick (ngày 6 tháng 7 năm 2008). “Laura Robson dazzles with power and poise to win title”. The Times. UK. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.[liên kết hỏng]
  127. ^ “Wimbledon 2013: Laura Robson tipped for future glory”. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2015.
  128. ^ Harman, Neil (ngày 26 tháng 9 năm 2008). “Laura Robson shows all the right qualities to continue her winning habit”. The Times. UK. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.[liên kết hỏng]
  129. ^ Reed, Simon (ngày 13 tháng 2 năm 2009). “Simon Reed: Serena's Slam hopes”. Eurosport. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2009.
  130. ^ Cash, Pat (ngày 25 tháng 1 năm 2009). “Laura Robson: Steady as she goes”. The Times. UK. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2009.[liên kết hỏng]

Liên kết ngoài

Tiền nhiệm:
Heather Watson
Heather Watson
Vận động viên quần vợt số một Anh
17 tháng 9 năm 2012 - 14 tháng 10 năm 2012
8 tháng 4 năm 2013 - 8 tháng 6 năm 2014
Kế nhiệm:
Heather Watson
Heather Watson
Giải thưởng
Tiền nhiệm:
România Irina-Camelia Begu
Tân binh của năm
2012
Kế nhiệm:
Canada Eugenie Bouchard

Read other articles:

Bagian dari seriIslam Rukun Iman Keesaan Allah Nabi dan Rasul Allah Kitab-kitab Allah Malaikat Hari Kiamat Qada dan Qadar Rukun Islam Syahadat Salat Zakat Puasa Haji Sumber hukum Islam al-Qur'an Sunnah (Hadis, Sirah) Tafsir Akidah Fikih Syariat Sejarah Garis waktu Muhammad Ahlulbait Sahabat Nabi Khulafaur Rasyidin Khalifah Imamah Ilmu pengetahuan Islam abad pertengahan Penyebaran Islam Penerus Muhammad Budaya dan masyarakat Akademik Akhlak Anak-anak Dakwah Demografi Ekonomi Feminisme Filsafat...

 

ميتاوا   الإحداثيات 42°14′38″N 87°55′04″W / 42.24389°N 87.91778°W / 42.24389; -87.91778  تاريخ التأسيس 1960  تقسيم إداري  البلد الولايات المتحدة[1]  التقسيم الأعلى مقاطعة ليك، إلينوي  خصائص جغرافية  المساحة 5.40 ميل مربع  عدد السكان  عدد السكان 533 (1 أبريل 2020)[2 ...

 

Een ledemaat of extremiteit (vroeger ook lidmaat) is een deel van het lichaam van mens of dier dat uitsteekt ten opzichte van de rest. Bij de mens zijn ledematen en extremiteiten synoniem. De ontwikkeling van extremiteiten – zowel vinnen, voelers, grijpers, poten als vleugels – bij geleedpotigen en gewervelden blijkt ondanks 500 miljoen jaar van onafhankelijke evolutie zeer vergelijkbaar genetische regulatormechanismen te hebben. Het hoxgen speelt daarbij een centrale rol.[1] Lede...

Battle of the American Civil War For other uses, see Battle of Athens (disambiguation). Battle of Sulpher Creek TrestlePart of the American Civil WarDateSeptember 23, 1864 (1864-09-23)-September 25, 1864 (1864-09-25)LocationLimestone County, AlabamaMorgan County, AlabamaGiles County, Tennessee34°54′34″N 86°59′17″W / 34.90936°N 86.98814°W / 34.90936; -86.98814Result Confederate victoryBelligerents United States (Union) CSA (Conf...

 

笛吹川 監督 木下惠介脚本 木下惠介原作 深沢七郎製作 細谷辰雄音楽 木下忠司撮影 楠田浩之編集 杉原よし製作会社 松竹大船配給 松竹公開 1960年10月19日上映時間 123分製作国 日本言語 日本語テンプレートを表示 『笛吹川』(ふえぶきがわ)は、1960年に松竹が製作・配給した木下惠介監督・脚本の日本映画である。原作は深沢七郎の同名小説。モノクロフィルムに部分的

 

بابتمعلومات عامةصنف فرعي من سبيكة سُمِّي باسم إسحاق بابيت تعديل - تعديل مصدري - تعديل ويكي بياناتتشكيلات معدنية من سبيكة بابت بابِت[1] هي سبيكة من القصدير والإثمد والنحاس تستعمل كسطح حامل في المحامل البسيطة لمنع الاحتكاك. سميت السبيكة على اسم مكتشفها إسحق بابت Isaac Babbitt.&#...

Tanjung LuarDesaNegara IndonesiaProvinsiNusa Tenggara BaratKabupatenLombok TimurKecamatanKeruakKode pos83672Kode Kemendagri52.03.01.2001 Luas... km²Jumlah penduduk... jiwaKepadatan... jiwa/km² Perahu di Tanjung Luar pada masa Hindia Belanda Tanjung Luar merupakan salah satu desa yang ada di kecamatan Keruak, kabupaten Lombok Timur, provinsi Nusa Tenggara Barat, Indonesia. Desa merupakan satu dari 4 desa dan kelurahan yang berada di kecamatan Keruak. Desa ini memiliki kodepos 83672. Des...

 

У Вікіпедії є статті про інших людей із прізвищем Губенко. Валерій Олександрович Губенко Народження 25 січня 1939(1939-01-25)КиївСмерть 19 лютого 2000(2000-02-19) (61 рік)Київ, УкраїнаПоховання Байкове кладовищеКраїна  УкраїнаОсвіта Військова академія імені М. В. ФрунзеРоки служби 1958...

 

Process by which fertile areas of land become increasingly arid Not to be confused with Decertification or Desertion. World map from 1998 showing global desertification vulnerabilityDesertification is a type of land degradation in drylands in which biological productivity is lost due to natural processes or induced by human activities whereby fertile areas become arid.[1][2] It is the spread of arid areas caused by a variety of factors, such as overexploitation of soil as a re...

Australian professional rugby league coach (born 1950) Tim SheensPersonal informationFull nameTimothy SheensBorn (1950-10-30) 30 October 1950 (age 73)Sydney, New South Wales, AustraliaHeight179 cm (5 ft 10 in)Weight99 kg (15 st 8 lb)Playing informationPositionProp Club Years Team Pld T G FG P 1970–82 Penrith Panthers 166 11 0 0 33 Coaching information Club Years Team Gms W D L W% 1984–87 Penrith Panthers 98 43 4 51 44 1988–96 Canberra Raid...

 

Indonesian physicist (born 1963) Yohanes SuryaBorn (1963-11-06) 6 November 1963 (age 60)Jakarta, IndonesiaAlma materUniversity of IndonesiaCollege of William and Mary, United StatesSpouseChristina SuryaAwardsCEBAF/SURA Awards USA 1992/93Zable Fellowship USA 1993/94Creativity Awards 2005 from Creativity Development FoundationLencana Satya Wira Karya 2006 from President Susilo Bambang Yudhoyono and TEMPOScientific careerFieldsPhysics Nuclear physicsInstitutionsSurya Institute, Surya R...

 

For the school in Malden, Missouri, see Malden High School (Missouri). Public high school in Malden, Massachusetts, United StatesMalden High SchoolLocation77 Salem StreetMalden, Massachusetts 02148United StatesCoordinates42°25′38″N 71°3′54″W / 42.42722°N 71.06500°W / 42.42722; -71.06500InformationTypePublic High schoolEstablished1857; 166 years ago (1857)School districtMalden Public SchoolsSuperintendentLigia Noriega-MurphyPrincipalChristo...

  هذه المقالة عن لغة أمازيغية. لمعانٍ أخرى، طالع أمازيغ (توضيح). أمازيغية صنهاجة الاسم الذاتي Tamaziɣt ⵜⴰⵎⴰⵣⵉⵖⵜ   الناطقون 50.000[1] (2013) الدول المغرب المنطقة شمال أفريقيا الكتابة تيفيناغ،  وإخطاطة لاتينية  النسب أفريقية آسيوية لغات أمازيغية شماليةلغات الأطلس...

 

Musical instrument in the percussion family HangFree Integral Hang (2010)Percussion instrumentHornbostel–Sachs classification111.24(Percussion vessels)Inventor(s)Felix Rohner, Sabina SchärerDeveloped2000 The Hang (German pronunciation: [haŋ];[1] plural form: Hanghang)[2] is a type of musical instrument called a handpan, fitting into the idiophone class and based on the Caribbean steelpan instrument. It was created by Felix Rohner and Sabina Schärer in Bern, Switze...

 

Railway line in Mie prefecture, Japan Ise LineAn Ise Railway type III DMU on the Ise LineOverviewNative name伊勢線StatusIn operationOwnerIse RailwayLocaleMie PrefectureTerminiKawaradaTsuStations10ServiceTypeHeavy railServices3Operator(s)Ise Railway, JR CentralDepot(s)TamagakiRolling stockIse Railway type III DMU, KiHa 75 series DMU, HC85 series DEMUHistoryOpened1 September 1973TechnicalLine length22.3 km (13.9 mi)Number of tracksSingle (Tsu - Nakaseko) Double (Nakaseko - Kawarada)Character...

PausKlemens XAwal masa kepausan29 April 1670Akhir masa kepausan22 Juli 1676PendahuluKlemens IXPenerusInosensius XIInformasi pribadiNama lahirEmilio Bonaventura AltieriLahir13 Juli 1590Roma, ItaliaMeninggal22 Juli 1676Roma, Italia Klemens X (13 Juli 1590 – 22 Juli 1676) adalah Paus yang menjabat sejak 29 April 1670 sampai 22 Juli 1676. lbs Paus Gereja Katolik Daftar paus grafik masa jabatan orang kudus Nama Paus Abdikasi Paus Paus emeritus Antipaus Paus terpilih Abad ke-1s.d. k...

 

Paus Liberius adalah seorang Paus, pemimpin Gereja Katolik Roma, uskup Roma dari 17 Mei 352 hingga 24 September 366. Liberius adalah Paus pertama yang tidak menjadi santo dikalangan Gereja Latin, sedangkan Gereja Ortodoks Timur mengkanonisasikan Paus Liberius sebagai santo. Didahului oleh:Julius I Paus352 - 366 Diteruskan oleh:Damasus I lbs Paus Gereja Katolik Daftar paus grafik masa jabatan orang kudus Nama Paus Abdikasi Paus Paus emeritus Antipaus Paus terpilih Abad ke-1s.d. ke-4 Petru...

 

European Parliament political group You can help expand this article with text translated from the corresponding article in German. (May 2019) Click [show] for important translation instructions. View a machine-translated version of the German article. Machine translation, like DeepL or Google Translate, is a useful starting point for translations, but translators must revise errors as necessary and confirm that the translation is accurate, rather than simply copy-pasting machine-transla...

Brand of toaster pastries Toaster StrudelProduct typeToaster pastryOwnerGeneral MillsCountryUnited StatesIntroduced1985; 38 years ago (1985)Related brandsToaster ScramblesPrevious ownersPillsbury CompanyRegistered as a trademark inJuly 28, 1992; 31 years ago (1992-07-28)[1]TaglineSomething better just popped up and Get Zem GöingWebsiteOfficial website Toaster Strudel is the brand name of a toaster pastry, prepared by heating the frozen pastries in ...

 

Book by Bruce Feiler This article's lead section may not adequately summarize its contents. Please help improve the lead by writing an accessible overview. (March 2020) The Council of Dads AuthorBruce FeilerLanguageEnglishPublisherWilliam Morrow and CompanyPublished in EnglishApril 27, 2010ISBN978-0-06-177876-6 The Council of Dads: My Daughters, My Illness, and the Men Who Could Be Me by Bruce Feiler was written in 2010 and published by William Morrow and Company. Synopsis This section d...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!