Johan Neeskens

Johan Neeskens
Neeskens năm 1974
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Johannes Jacobus Neeskens[1]
Ngày sinh (1951-09-15)15 tháng 9 năm 1951
Nơi sinh Heemstede, Hà Lan
Ngày mất 6 tháng 10 năm 2024(2024-10-06) (73 tuổi)
Nơi mất Algeria
Chiều cao 1,78 m (5 ft 10 in)[2]
Vị trí Tiền vệ
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1968–1970 RCH 68 (1)
1970–1974 Ajax 124 (33)
1974–1979 F.C. Barcelona 140 (35)
1979–1984 New York Cosmos 94 (17)
1984–1985 Groningen 7 (0)
1985 Fort Lauderdale Sun 1 (1)
1985–1986 Kansas City Comets (trong nhà) 23 (1)
1986–1987 Löwenbrau (nghiệp dư) ? (?)
1987–1990 Baar 23 (5)
1990–1991 Zug 1 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1970–1981 Hà Lan 49 (17)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
1991–1993 Zug
1993–1995 Stäfa
1995–1996 Singen
1995–2000 Hà Lan (phó quản lý)
2000–2004 NEC
2005–2006 Úc (phó quản lý)
2006–2008 F.C. Barcelona (phó quản lý)
2008–2009 Hà Lan
2009–2010 Galatasaray (phó quản lý)
2011–2012 Mamelodi Sundowns
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Hà Lan
Bóng đá nam
World Cup
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Tây Đức 1974 Đội bóng
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Argentina 1978 Đội bóng
Euro
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Nam Tư 1976 Đội bóng
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Johannes "Johan" Jacobus Neeskens (15 tháng 9 năm 1951 – 6 tháng 10 năm 2024) là một huấn luyện viên và cựu tiền vệ huyền thoại người Hà Lan. Được ghi nhận là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất lịch sử, ông từng là thành viên quan trọng của Hà Lan giành huy chương bạc World Cup 1974World Cup 1978.[3][4][5] Vào năm 2004, ông được vinh danh trong danh sách 125 cầu thủ vĩ đại nhất còn sống bởi Pele tại lễ trao giải của FIFA,[6] vào năm 2017 ông tiếp tục được nêu tên ở vị thứ 64 trong danh sách 100 cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử của tạp chí FourFourTwo.[7]

Sau khi giải nghệ vào năm 1991, Neeskens trở thành trợ lý huấn luyện viên cho Guus Hiddink của đội tuyển Hà Lan, Úc và Frank Rijkaard của đội tuyển Hà Lan, Barcelona và Galatasaray. Ông cũng đã trở thành huấn luyện viên trưởng của NEC Nijmegen, đội tuyển Hà Lan B[8]Mamelodi Sundowns.

Đầu đời

Neeskens sinh ra tại Heemstede, Bắc Hà Lan vào ngày 15 tháng 9 năm 1951. Thời thơ ấu của ông đánh dấu bằng cuộc ly hôn của cha mẹ, ông phải ngủ ngoài hành lang do không gian chật chội.[9]

Neeskens có năng khiếu thể thao từ nhỏ, bao gồm thể dục dụng cụ và bóng chày. Ông đã đại diện cho Hà Lan tại một giải đấu Châu Âu trẻ trong môn thể thao sau.[9]

Sự nghiệp câu lạc bộ

Neeskens bắt đầu sự nghiệp tại Racing Club Heemstede vào năm 1968, sau đó ông lọt vào mắt xanh của huấn luyện viên Rinus Michels và kí hợp đồng với Ajax vào năm 1970.[10] Cầu thủ trẻ gây ấn tượng tại vị trí hậu vệ cánh phải khi cùng Ajax đánh bại Panathinaikos trong trận chung kết European Cup năm 1971. Trong mùa giải 1971–72, Neeskens bắt đầu chơi nhiều hơn tại vị trí tiền vệ trung tâm và hỗ trợ cho Johan Cruyff. Ông đã nhanh chóng thích nghi với vai trò mới này bởi ông là một người chạy không biết mệt, có kĩ thuật tốt và ghi được nhiều bàn thắng. Ajax đã lập chiến tích ba lần lên ngôi vô địch European Cup liên tiếp từ năm 1971 đến 1973. Vào năm 1974, ông cùng Cruyff và Michels chuyển tới FC Barcelona, tại đây ông được gọi với biệt danh Johan Segon (Johan thứ hai).[10]

Mặc dù quãng thời gian của ông tại Barcelona không thực sự thành công (một chiếc cúp năm 1978 và vô địch Cup Winners' Cup năm 1979), ông vẫn nhận được sự yêu mến đặc biệt từ người hâm mộ. Vào năm 1979, ông chấp nhận lời đề nghị của New York Cosmos, chơi cho câu lạc bộ trong vòng năm năm. Ông nhận mức lương tương đương 600,000 guilder Hà Lan (khoảng 300,000 đô la) một năm tại câu lạc bộ.[11] Sau khi vắng mặt không có lý do lần thứ ba, ông đã bị đình chỉ chín tháng bởi huấn luyện viên Hennes Weisweiler vào cuối năm 1980.[11] Cosmos chấm dứt hợp đồng với ông vào tháng 10 năm 1984. Ông tiếp tục chơi cho FC Groningen vào mùa giải 1984–85. Vào tháng 6 năm 1985, ông ký hợp đồng với đội bóng South Florida Sun của giải đấu United Soccer League.[12] Tuy nhiên, giải đấu đã giải tán chỉ sau sáu trận đấu của mùa giải 1985. Ngày 15 tháng 8 năm 1985, ông ký hợp đồng với câu lạc bộ Kansas City Comets của giải đấu Major Indoor Soccer League.[13]

Neeskens sau đó chơi cho FC Baar từ năm 1988 đến 1990 và FC Zug tại Thụy Sĩ, ông cuối cùng giải nghệ vào năm 1991.[14][15]

Sự nghiệp quốc tế

Ba nhân vật biểu tượng của trường phái Totaalvoetbal: Johan Neeskens, Rinus MichelsJohan Cruyff vào năm 1976
Neeskens ghi bàn thắng đầu tiên trong trận chung kết World Cup 1974 trước Tây Đức

Neeskens thi đấu 49 trận cho Hà Lan, ghi được 17 bàn thắng. Ông ra mắt đội tuyển quốc gia trong trận đối đầu Đông Đức vào năm 1970 và đóng góp một vai trò quan trọng trong lối chơi của Hà Lan tại hai kì 19741978 FIFA World Cup.[9]

Tại vòng loại World Cup 1974, Neeskens lập một cú hat-trick trong chiến thắng 9–0 trước Na Uy và vô hiệu hóa toàn bộ nỗ lực chặt chém của Paul Van Himst bên phía Bỉ; màn trình diễn này sau đó bị tờ báo de Volkskrant của Hà Lan chỉ trích và gọi đó là "nỗi ô nhục" khi Himst phạm lỗi tới 13 lần.[11] Tại giải đấu diễn ra tại Tây Đức, ông ghi hai bàn thắng trên chấm penalty trước Bulgaria và một bàn trong chiến thắng 2–0 trước đương kim vô địch Brazil để đưa Hà Lan tới trận chung kết.[9] Bàn thắng từ chấm phạt đền của Neeskens ngay phút thứ hai không thể giúp cho Hà Lan giành chức vô địch khi họ sau đó để thua với tỉ số 1–2.[16]

Bốn năm sau đó, Neeskens tiếp tục trở thành đầu tàu của Hà Lan (mặc dù ông bị chấn thương vai trong trận thua trước Scotland) khi Cruyff vắng mặt và đã từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế vào năm 1977. Hà Lan tiếp tục lọt vào chung kết và tiếp tục thua đội chủ nhà (lần này là Argentina) với tỉ số 3-1 sau hai hiệp phụ.[11]

Số lần góp mặt tại giải đấu quốc tế trở nên ít dần kể từ khi ông chuyển đến New York Cosmos. Ông từ chối tham gia trận đấu quyết định trước Đông Đức tại vòng loại UEFA Euro 1980 vào tháng 9 năm 1979 với lý do ông đang kiệt quệ về mặt thể chất lẫn tinh thần.[11] Sau khi hết chín tháng đình chỉ do vắng mặt không lý do tại câu lạc bộ hết hạn, ông được gọi trở lại đội tuyển Hà Lan bởi huấn luyện viên Kees Rijvers vào cuối năm 1981 để tham dự hai trận đấu thuộc vòng loại FIFA World Cup 1982. Ông nhận được sự cổ vũ trong chiến thắng 3–0 trước Bỉ trên sân nhà, nhưng Hà Lan sau đó đã để thua 0-2 khi hành quân đến sân nhà của Pháp trong trận đấu quốc tế cuối cùng của ông và không thể giành quyền tham dự giải đấu.[11]

Sự nghiệp huấn luyện viên

Guus Hiddink bổ nhiệm Neeskens cho vị trí trợ lý huấn luyện viên cho đội tuyển Hà Lan vào năm 1995.[11] Họ dẫn dắt đội tuyển thi đấu tại FIFA World Cup 1998.[17] Ông vẫn tiếp tục giữ vai trò này dưới thời người kế nhiệm Frank Rijkaard, họ dẫn dắt đội tuyển tham dự Euro 2000, giải đấu mà họ là nước đồng chủ nhà.[18] Vào năm 2000 ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của một đội bóng Hà Lan có tên NEC Nijmegen, giúp họ góp mặt tại một giải đấu mang tầm cỡ châu lục lần đầu tiên trong vòng hai mươi năm vào năm 2003. Tuy nhiên, ông bị sa thải vào tháng 12 năm 2004 khi đội bóng chỉ đứng thứ 14.[19]

Tháng 12 năm 2005, Neeskens tiếp tục được bổ nhiệm làm trợ lý huấn luyện viên cho đội tuyển Úc, một lần nữa là lời đề nghị của Guus Hiddink, người khi đó đang là huấn luyện viên trưởng của Socceroos'.[17] Ông làm việc bên cạnh Hiddink và Graham Arnold trong chiến dịch World Cup 2006.[20]

Sau World Cup 2006, Neeskens quay trở lại FC Barcelona để thay thế Henk ten Cate trong đội ngũ kĩ thuật của câu lạc bộ và gặp lại Rijkaard.[20] Vào tháng 5 năm 2008, Rijkaard bị sa thải khi bản hợp đồng vẫn còn một năm, với các trợ lý Neeskens và Eusebio Sacristán rời đi cùng ông.[21]

Neeskens tiếp tục gia nhập Galatasaray cùng Frank Rijkaard với tư cách trợ lý huấn luyện viên vào năm 2009 và cũng rời câu lạc bộ cùng Rijkaard vào tháng 10 năm 2010.[22] Sau đó, ông trở thành huấn luyện viên của câu lạc bộ Nam Phi Mamelodi Sundowns vào năm 2011. Ông bị sa thải vào tháng 12 năm 2012 với việc đội bóng lúc đó xếp áp chót bảng và thua trận chung kết League Cup trước Bloemfontein Celtic.[23]

Phong cách chơi bóng

Nói về Neeskens, trang chủ UEFA tuyên bố rằng ông là một "tiền vệ cứng rắn, chạy không biết mệt nhưng cũng đồng thời có kĩ thuật tuyệt vời và khả năng ghi bàn tốt, là người hỗ trợ đắc lực giúp Cruyff tỏa sáng. Một tiền vệ con thoi với thể lực sung mãn, tinh thần thi đấu tuyệt vời và những cú sút mạnh mẽ, Neeskens hoàn hảo trong việc gây áp lực lên đối thủ và giành lại quyền kiểm soát bóng. "Anh ấy đáng giá bằng hai cầu thủ ở hàng tiền vệ," theo lời của người đồng đội Sjaak Swart."[24]

Neeskens bắt đầu sự nghiệp với vị trí hậu vệ phải cho Heemstede nhưng ông đã được đẩy lên chơi ở hàng tiền vệ bởi huấn luyện viên Ștefan Kovács của Ajax. Ông là một nhân tố trong triết lý bóng đá tổng lực do Rinus Michels thiết kế, một lối chơi cho phép các cầu thủ có thể hoán đổi vị trí một cách linh hoạt và tự do.[9]

Đời tư và cái chết

Neeskens đã kết hôn hai lần: lần đầu tiên với Marianne Schiphof vào năm 1974, họ có với nhau một người con trai và lần thứ hai với Marlis von Reding gốc Thụy Sĩ vào năm 1985 và họ sinh được hai gái và một trai.[11][9][25] John Neeskens, một người Hà Lan đang chơi bóng ở Tây Ban Nha đã bị nhầm là con trai của ông.[26]

Neeskens qua đời tại Algeria vào ngày 6 tháng 10 năm 2024, hưởng thọ 73 tuổi.[27] Ông đang ở Algeria như là một phần của dự án huấn luyện KNVB và qua đời vì một cơn nhồi máu cơ tim.[11]

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Số lần ra sân và số bàn thắng ghi cho câu lạc bộ trong các mùa giải và giải đấu
Câu lạc bộ Mùa giải Vô địch quốc gia Cúp quốc gia Cúp liên đoàn Châu lục Khác Tổng
Giải đấu Ra sân Bàn thắng Ra sân Bàn thắng Ra sân Bàn thắng Ra sân Bàn thắng Ra sân Bàn thắng Ra sân Bàn thắng
RCH 1968–69[28][29] Eerste Divisie 34 0 1 0 35 0
1969–70[28][29] Eerste Divisie 34 1 1 0 35 1
Tổng 68 1 2 0 0 0 0 0 0 0 70 1
Ajax 1970–71[29] Eredivisie 33 1 6 2 9[a] 2 48 5
1971–72[29] Eredivisie 28 10 5 2 8[a] 0 41 12
1972–73[29] Eredivisie 32 7 1 0 7[a] 0 3[b] 1 43 8
1973–74[29] Eredivisie 31 14 4 0 2[a] 0 2[c] 1 37 15
Tổng 124 32 16 4 0 0 24 2 5 2 169 40
Barcelona 1974–75[30] La Liga 27 7 0 0 7[a] 1 34 8
1975–76[30] La Liga 32 12 0 0 9[d] 6 41 18
1976–77[30] La Liga 33 8 0 0 8[d] 1 41 9
1977–78[30] La Liga 18 2 2 0 7[d] 1 27 3
1978–79[30] La Liga 30 6 1 0 9[e] 0 40 6
Tổng 140 35 3 0 0 0 40 9 0 0 183 44
New York Cosmos 1979[28] NASL 13 4 13 4
1980[28] NASL 17 4 17 4
1981[28] NASL 6 2 6 2
1982[28] NASL 17 0 17 0
1983[28] NASL 23 2 23 2
1984[28] NASL 18 5 18 5
Tổng 94 17
Groningen 1984–85[29] Eredivisie 7 0 0 0 0 0 7 0
South Florida Sun 1985 USL 1 1 1 1
Kansas City Comets 1985–86[28] MISL 23 1 23 1
Löwenbrau 1986–87
Baar 1987–88[28] 9 1 9 1
1988–89[28] 13 4 13 4
1989–90[28] 1 0 1 0
Tổng 23 5 23 5
Zug 1990–91[28] 1 0
Tổng cộng sự nghiệp 450+ 91+ 21+ 4+ 64+ 11+ 5+ 2+ 540+ 108+
  1. ^ a b c d e Số lần ra sân tại UEFA European Cup
  2. ^ Một lần ra sân tại UEFA Super Cup; hai lần ra sân, một bàn thắng tại Intercontinental Cup
  3. ^ Số lần ra sân tại UEFA Super Cup
  4. ^ a b c Số lần ra sân tại UEFA Cup
  5. ^ Số lần ra sân tại UEFA Cup Winners' Cup

Quốc tế

Số lần ra sân và bàn thắng cho đội tuyển quốc gia theo năm[31]
Đội tuyển Năm Ra sân Bàn thắng
Hà Lan 1970 2 0
1971 3 0
1972 4 5
1973 5 1
1974 13 9
1975 3 1
1976 4 1
1977 3 0
1978 8 0
1979 2 0
1980 0 0
1981 2 0
Tổng 49 17

Danh hiệu

Ajax[28][32]

Barcelona[32]

New York Cosmos[32]

Hà Lan[32]

Tham khảo

  1. ^ “Johannes Jacobus Neeskens”. Turkish Football Federation. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2020.
  2. ^ “worldfootball.net-Johan Neeskens”.[liên kết hỏng]
  3. ^ “FC Barcelona: El problema fecal de Núñez que echó a Neeskens del Barça - Marca.com”. marca.com. 15 tháng 3 năm 2016.
  4. ^ “El Real Madrid ficha al hijo de Neeskens - MARCA.com”. marca.com.
  5. ^ “Johan Neeskens – FC Barcelona”. FC Barcelona.
  6. ^ “Pele's list of the greatest”. BBC Sport. 4 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2013.
  7. ^ Yorkhin, Michael (25 tháng 7 năm 2017). “FourFourTwo's 100 Greatest Footballers EVER: 60 to 51”. FourFourtwo. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2017.
  8. ^ “Neeskens to lead Netherlands B team”. UEFA.com. 25 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2008.
  9. ^ a b c d e f “Johan Neeskens, midfielder who reached two World Cup finals and helped to create total football”. The Daily Telegraph. 8 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
  10. ^ a b Chiesa, Carlo F. (22 tháng 8 năm 1999). “We are the champions – I 150 fuoriclasse che hanno fatto la storia del calcio” [The 150 champions that made football's history]. Calcio 2000 (bằng tiếng Ý). Action Group S.r.l.: 123.
  11. ^ a b c d e f g h i “Johan Neeskens: keihard en kwetsbaar”. Voetbal International (bằng tiếng Dutch). 7 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  12. ^ NEESKENS' GAME-WINNER LIFTS SUN, 3–1 Miami Herald, The (FL) – Sunday, 23 June 1985
  13. ^ Sports People. Nytimes.com (15 August 1985). Retrieved on 29 June 2011.
  14. ^ “Il miglior gregario di sempre: Johan Neeskens, il calciatore totale”. zonacesarini.net (bằng tiếng Ý). 8 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2018.
  15. ^ “Neeskens, le métronome de l'Oranje mécanique”. fifa.com (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2018.
  16. ^ “Johan Neeskens: Dutch legend who scored in World Cup final dies aged 73”. The Times. 7 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  17. ^ a b “Neeskens takes up Socceroos role”. BBC Sport. 29 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  18. ^ “Rijkaard unites the orange factions”. The Guardian. 4 tháng 6 năm 2000. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  19. ^ “Neeskens sacked by NEC”. World Soccer. 13 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  20. ^ a b “Socceroos tried hard to keep Neeskens”. ABC News. 10 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  21. ^ “Rijkaard to leave Barcelona”. Reuters. 8 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  22. ^ “Rijkaard parts company with Galatasaray”. The Independent. 20 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  23. ^ “Mosimane replaces Neeskens as coach of Mamelodi Sundowns”. BBC Sport. 2 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  24. ^ The greatest teams of all time: Ajax 1971–73. UEFA.com. Retrieved on 30 October 2015.
  25. ^ Ferrer, Isabel (7 tháng 10 năm 2024). “Muere el exfutbolista Johan Neeskens a los 73 años”. El País (bằng tiếng Spanish). Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  26. ^ 'Zoon' Johan Neeskens is niet zoon van Neeskens”. Elf Voetbal (bằng tiếng Dutch). 29 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  27. ^ “Johan Neeskens (15 september 1951 – 6 oktober 2024)”. KNVB. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2024.
  28. ^ a b c d e f g h i j k l m n Johan Neeskens tại National-Football-Teams.com
  29. ^ a b c d e f g “Johan Neeskens » Club matches”. worldfootball.net. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2024.
  30. ^ a b c d e Johan Neeskens tại BDFutbol
  31. ^ Johan Neeskens – International Appearances. rsssf.org. Retrieved on 29 June 2011.
  32. ^ a b c d “The Clockwork Oranje's midfield master”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
  33. ^ “1978 Tournoi de Paris”. RSSSF. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2017.

Liên kết ngoài

Read other articles:

1942 film by Edward Ludwig Born to SingFilm posterDirected byEdward LudwigWritten byFranz SchulzHarry ClorkProduced byFrederick StephaniStarringVirginia WeidlerRay McDonaldLeo GorceyRags RaglandDouglas McPhailCinematographySidney WagnerEdited byRobert J. KernMusic byLennie HaytonDavid SnellDistributed byMetro-Goldwyn-MayerRelease date1942Running time82 minsCountryUnited StatesLanguageEnglishBudget$465,000[1]Box office$543,000[1] Born to Sing is a 1942 American feature film dir...

 

Campionato mondiale maschile di pallacanestroAltri nomiFIBA World Cup Sport Pallacanestro TipoSquadre nazionali FederazioneFIBA OrganizzatoreFIBA TitoloCampione del mondo CadenzaQuadriennale Partecipanti32 (dal 2019) FormulaGironi all'italiana + Eliminazione diretta Sito Internethttp://www.fiba.com StoriaFondazione1950 Numero edizioni19 Detentore Germania Ultima edizione2023 Prossima edizione2027 Modifica dati su Wikidata · Manuale Il campionato mondiale maschile di pallacanestro (in in...

 

44°48′26″N 20°28′20″E / 44.807237°N 20.472090°E / 44.807237; 20.472090 كلية الحقوق بجامعة بلغراد   معلومات التأسيس 1808  الموقع الجغرافي إحداثيات 44°48′26″N 20°28′20″E / 44.8072°N 20.4721°E / 44.8072; 20.4721  البلد صربيا  إحصاءات عدد الطلاب 8000   عدد الموظفين 115   الموقع الموقع الرس

Penyuntingan Artikel oleh pengguna baru atau anonim untuk saat ini tidak diizinkan.Lihat kebijakan pelindungan dan log pelindungan untuk informasi selengkapnya. Jika Anda tidak dapat menyunting Artikel ini dan Anda ingin melakukannya, Anda dapat memohon permintaan penyuntingan, diskusikan perubahan yang ingin dilakukan di halaman pembicaraan, memohon untuk melepaskan pelindungan, masuk, atau buatlah sebuah akun. Artikel ini membutuhkan rujukan tambahan agar kualitasnya dapat dipastikan. Mohon...

 

1998 television film by Duwayne Dunham HalloweentownPromotional posterGenre Fantasy Comedy Family film Screenplay by Paul Bernbaum Jon Cooksey Ali Matheson Story byPaul BernbaumDirected byDuwayne DunhamStarring Debbie Reynolds Judith Hoag Kimberly J. Brown Joey Zimmerman Emily Roeske Phillip van Dyke Robin Thomas ComposerMark MothersbaughCountry of originUnited StatesOriginal languageEnglishProductionProducers Ron Mitchell Brian Pogue CinematographyMichael SlovisEditorMartin NicholsonRunning ...

 

State secondary school in Auckland, New Zealand Epsom Girls' Grammar SchoolEpsom Girls' Grammar School and Ōhinerau / Mount Hobson seen from Maungawhau / Mount EdenAddressSilver Road, Epsom, Auckland, New ZealandCoordinates36°52′38″S 174°46′28″E / 36.87722°S 174.77444°E / -36.87722; 174.77444InformationTypeState Single Sex Girls Secondary (Year 9–13) with Boarding FacilitiesMottoLatin: Per Angusta, Ad Augusta(Through difficulties to greatness.)Establishe...

1970 film ShangoTheatrical release posterDirected byEdoardo MulargiaWritten byAnthony Steffen Edoardo MulargiaStarringAnthony Steffen Eduardo FajardoCinematographyGino SantiniMusic byGianfranco Di StefanoRelease date 1970 (1970) CountryItalyLanguageItalian Shango (Italian: Shango, la Pistola Infallibile, lit. 'Shango, the Infallible Pistol')[1] is a 1970 Italian Spaghetti Western film directed by Edoardo Mulargia. The film was written by Mulargia and Anthony Steffen...

 

Indian actor MotilalBornMotilal Rajvansh(1910-12-04)4 December 1910Shimla, Punjab, British India (present-day Himachal Pradesh, India)Died17 June 1965(1965-06-17) (aged 54)[1]Bombay, Maharashtra, IndiaYears active1934–1965Partner(s)Shobhna SamarthNadira (sep.)AwardsFilmfare Best Supporting Actor Award: Devdas (1955) ; Parakh (1960) Motilal Rajvansh (4 December 1910 – 17 June 1965) was an Indian actor and the winner of Filmfare Best Supporting Actor Award for Devdas ...

 

Artykuł 52°30′12″N, 18°42′46″E - błąd 38 m WD 52°31'N, 18°43'E - błąd 2292 m Odległość 1591 m Topólka wieś Fragment centrum wsi Państwo  Polska Województwo  kujawsko-pomorskie Powiat radziejowski Gmina Topólka Liczba ludności (2011) 451[1] Strefa numeracyjna 54 Kod pocztowy 87-875[2] Tablice rejestracyjne CRA SIMC 0870729 Położenie na mapie gminy TopólkaTopólka Położenie na mapie PolskiTopólka Położenie na mapie województwa kujawsko-p...

1995 video gameToughman ContestDeveloper(s)High Score ProductionsVisual ConceptsPublisher(s)EA SportsComposer(s)Brian SchimdtPlatform(s)32X, Sega GenesisReleaseMay 1995[1]Genre(s)Sports Toughman Contest is a boxing video game for the Sega Genesis and 32X. It is based on the Toughman Contest, and features Eric Butterbean Esch on the cover and as the game's final boss. The game was released in 1995. It received mixed reviews, generally criticizing the sluggishness of the gameplay while ...

 

Political strategy utilized by American conservatives This article is part of a series on theBudget and debt in theUnited States of America Major dimensions Economy Expenditures Federal budget Financial position Military budget Public debt Taxation Unemployment Total gov't spending Programs Medicare Social programs Social Security Contemporary issues Bowles–Simpson Commission Bush tax cuts Debt ceiling history Deficit reduction Fiscal cliff Healthcare reform Political debates Social Securit...

 

Airline of the United States For other uses, see Republic Airlines (disambiguation). Republic Airways HoldingsTypePrivateTraded asNasdaq: RJET (prior to delisting)IndustryTransportationFounded1973HeadquartersIndianapolis, Indiana, USAArea servedNorth AmericaKey peopleBryan Bedford (CEO)(Chairman) & (President), Paul Kinstedt (COO) Joe Allman (CFO) Matt Koscal (VP, Human Resources)ServicesAirline ServicesNumber of employees450 (in holding company) 10,000+ (subsidiaries)SubsidiariesRep...

Formula E race in Sanya, China This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Sanya ePrix – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (June 2019) (Learn how and when to remove this template message) Sanya ePrixHaitang Bay Circuit (2019)Race informationNumber of times held1First held2019Last held2019Most w...

 

هذه مقالة غير مراجعة. ينبغي أن يزال هذا القالب بعد أن يراجعها محرر مغاير للذي أنشأها؛ إذا لزم الأمر فيجب أن توسم المقالة بقوالب الصيانة المناسبة. يمكن أيضاً تقديم طلب لمراجعة المقالة في الصفحة المخصصة لذلك. (أكتوبر 2023) منظمة الصناعات الفضائية الجوية الإيرانية ( AIO ) ، (بالفار...

 

العلاقات البلغارية السريلانكية بلغاريا سريلانكا   بلغاريا   سريلانكا تعديل مصدري - تعديل   العلاقات البلغارية السريلانكية هي العلاقات الثنائية التي تجمع بين بلغاريا وسريلانكا.[1][2][3][4][5] مقارنة بين البلدين هذه مقارنة عامة ومرجعية للدولتين...

Marutea SudPulau Marutea Sud yang diambil oleh NASAMarutea SudGeografiLokasiSamudera PasifikKoordinat21°31′S 135°33′W / 21.517°S 135.550°W / -21.517; -135.550Koordinat: 21°31′S 135°33′W / 21.517°S 135.550°W / -21.517; -135.550KepulauanTuamotuLuas112 km2  (laguna)12 km2 (4,6 sq mi) (dpl)Panjang20 kmLebar8 kmPemerintahanNegara PrancisKolektivitas Polinesia PrancisAdministrative subdivis...

 

55th U.S. Attorney General Homer Cummings55th United States Attorney GeneralIn officeMarch 4, 1933 – January 2, 1939PresidentFranklin D. RooseveltPreceded byWilliam D. MitchellSucceeded byFrank MurphyChair of the Democratic National CommitteeIn officeFebruary 27, 1919 – July 28, 1920Preceded byVance C. McCormickSucceeded byGeorge WhiteState Attorney of Fairfield CountyIn office1914–1924Preceded byElmore S. Banks[1]Succeeded byWilliam H. Comley[2]Mayor o...

 

1945 American filmOdor-able KittyLobby cardDirected byCharles M. JonesStory byTedd PierceMichael MalteseProduced byEdward SelzerStarringMel BlancEdited byTreg BrownMusic byCarl W. StallingAnimation byRobert CannonKen HarrisBen WashamA.C. GamerLayouts byEarl Klein[1]Backgrounds byRobert Gribbroek[1]Color processTechnicolorProductioncompanyWarner Bros. CartoonsDistributed byWarner Bros. PicturesThe Vitaphone CorporationRelease date January 6, 1945 (1945-01-06) Run...

United States historic placeBuckman TavernU.S. National Register of Historic PlacesU.S. National Historic Landmark Buckman Tavern, Lexington, MassachusettsShow map of MassachusettsShow map of the United StatesLocation1 Bedford Street, Lexington, MassachusettsCoordinates42°26′57″N 71°13′47″W / 42.4493°N 71.2297°W / 42.4493; -71.2297Builtca. 1709–1710[chronology citation needed]ArchitectBenjamin MuzzeyArchitectural styleFederalNRHP referen...

 

American espionage comedy television series For the 2008 action-comedy film, see Get Smart (film). For other uses, see Get Smart (disambiguation). Get SmartTitle card from seasons one and twoGenreSatireSitcomAction adventureCreated byMel BrooksBuck HenryDirected byGary NelsonBruce BilsonDon AdamsJames KomackEarl BellamyStarringDon AdamsBarbara FeldonEdward PlattTheme music composerIrving SzathmaryCountry of originUnited StatesNo. of seasons5No. of episodes138 (list of episodes)ProductionExecu...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!