Nó có một dàn pháo chính bao gồm bốn khẩu QF 4,7 in (120 mm) Mark IX trên bệ CP Mark XIII góc thấp 30° vốn chỉ phù hợp để đối hạm, và dàn hỏa lực phòng không gồm hai khẩu pháo QF 2-pounder (40-mm) Mark II "pom-pom". Tám ống phóng ngư lôi 21 inch (530 mm) được bố trí trên hai bệ bốn nòng, và mang theo kiểu ngư lôi 21 inch (530 mm) Mark IX.
Các thiết bị chống tàu ngầm ban đầu rất giới hạn, không được trang bị sonar và chỉ có sáu quả mìn sâu.[2][4] Sonar được bổ sung vào năm 1939, vốn đã được Antelope sử dụng vào việc đánh chìm tàu ngầm U-41.[5]
Đến năm 1941, một trong các khẩu pháo 4,7 inch và bệ ống phóng ngư lôi phía sau được tháo dỡ, bổ sung một khẩu pháo 3 in (76 mm) phòng không thay chỗ ống phóng ngư lôi, đồng thời tăng cường vũ khí chống tàu ngầm khi mang theo 70 quả mìn sâu và khả năng phóng theo sơ đồ một loạt 10 quả. Radar cũng được trang bị, và dàn vũ khí phòng không tầm gần được bổ sung thêm kiểu pháo Oerlikon 20 mm, với hai khẩu vào năm 1941 và sau cùng lên đến sáu khẩu. Pháo 3 inch được tháo dỡ vào năm 1943, khi thiết bị định hướng cao tần được trang bị; và một khẩu 4,7 inch thứ hai được thay thế vào năm 1944 bởi hai khẩu pháo QF 6 pounder Hotchkiss.[2]
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Antelope được điều về Chi hạm đội Khu trục 18 thuộc Lực lượng Eo biển đặt căn cứ tại Portsmouth.[6][7] Trong thời gian còn lại của năm 1939 và những tháng đầu năm 1940, nó thực hiện các nhiệm vụ tuần tra và hộ tống vận tải tại eo biển Anh Quốc và khu vực Tiếp cận phía Tây. Vào ngày 5 tháng 2 năm 1940, nó là chiếc tàu hộ tống duy nhất cho đoàn tàu vận tải OA84 ở phía Nam Ireland khi chúng bị tàu ngầmĐứcU-41 tấn công, đánh chìm tàu chở hàng Beaverburn và làm hư hại tàu chở dầu Ceronia. Antelope đã phản công bằng mìn sâu và đánh chìm chiếc tàu ngầm đối phương.[5][7] Đây là chiếc U-boat duy nhất ngoài biển vào lúc đó và là chiếc đầu tiên bị đánh chìm dưới nước bởi một tàu khu trục duy nhất. Hạm trưởng của Antelope, Thiếu tá Hải quân R.T. White, được tặng thưởng Huân chương D.S.O. vào ngày 11 tháng 7 năm 1940 do chiến công này; ông chỉ huy Antelope từ ngày 24 tháng 9 năm 1938 đến ngày 26 tháng 2 năm 1941.[8]
Vào ngày 31 tháng 10 năm 1940, Antelope nằm trong thành phần hộ tống cho đoàn tàu vận tải OB237 khi nó đối đầu với tàu ngầm Đức U-31 ngoài khơi bờ biển Tây Bắc Ireland. Mìn sâu do Antelope và tàu chị em HMS Achates thả đã buộc U-31 phải nổi lên mặt nước, nơi thủy thủ đoàn của nó bỏ tàu. Antelope tìm cách chiếm U-31, nhưng va chạm với chiếc tàu ngầm không người điều khiển, làm hư hại chiếc tàu khu trục và làm đắm U-31. Antelope cứu vớt 44 người trong số thủy thủ của U-31, trong đó một người qua đời trên tàu, và đưa họ quay trở lại Clyde.[7][11]
Vào ngày 11 tháng 6, chỉ một ngày sau khi quay trở về Gibralta sau Chiến dịch Salient, Antelope hình thành nên lực lượng hộ tống cho Chiến dịch Harpoon, một dự định tiếp tế quy mô lớn được hộ tống mạnh mẽ đến Malta đang bị bao vây. Sau khi tàu tuần dương Liverpool bị hư hại bởi các máy bay ném bom-ngư lôi Ý, Antelope được cho tách ra khỏi đoàn tàu vận tải để kéo Liverpool quay trở lại Gibralta, có tàu khu trục HMS Westcott hộ tống.[7][13] Sang tháng 7, Antelope tham gia thêm hai đợt vận chuyển máy bay Spitfire khác cùng với Eagle trong các chiến dịch Pinpoint và Insect. Vào tháng 8, nó lại hình thành nên lực lượng hộ tống chủ yếu cho Chiến dịch Pedestal, một đoàn tàu vận tải khác đến Malta.[7]
Vào tháng 8 năm 1944, Antelope quay trở về Anh. Vào lúc này tình trạng vật chất của nó rất tệ hại, và nó bị bỏ không trong thành phần dự bị tại Tyne vào tháng 10, trong khi thủy thủ đoàn của nó được điều sang các con tàu khác, giúp làm giảm tình trạng thiếu hụt nhân lực trong Hải quân Hoàng gia.[7][14] Đến năm 1946, Antelope bị bán cho hãng Hughes Bolckow để tháo dỡ.[7][14]
Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (1992). Chronology of the War at Sea 1939–1945. London: Greenhill Books. ISBN1-86367-117-7 Kiểm tra giá trị |isbn=: giá trị tổng kiểm (trợ giúp).
Whitley, M. J. (2000). Destroyers of World War Two: An International Encyclopedia. London: Cassell & Co. ISBN1-85409-521-8.