Daniel Kahneman

Daniel Kahneman
Kahneman năm 2004
Sinh(1934-03-05)5 tháng 3 năm 1934[1]
Tel Aviv, Lãnh thổ Uỷ trị Palestine (nay là Israel)
Mất27 tháng 3 năm 2024(2024-03-27) (90 tuổi)
Thành phố New York, New York, Hoa Kỳ
Quốc tịchHoa Kỳ, Israel
Học vịĐại học Hebrew, Jerusalem (BA)
Đại học California, Berkeley (MA, PhD)
Nổi tiếng vìThiên kiến nhận thức
Kinh tế học hành vi
Lý thuyết triển vọng
Sự căm ghét mất mát
Phối ngẫuIrah Kahneman; Anne Treisman (1978–2018, khi bà mất)
Giải thưởngHiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ Giải Thành tựu trọn đời (2007)
Giải thưởng Tưởng niệm Nobel về Khoa học Kinh tế (2002)
Huân chương Tự do Tổng thống (2013)
Giải thưởng Leontief của Đại học Tufts (2010)
Giải Cống hiến Khoa học Xuất sắc của Cộng đồng Tâm lý học Hoa Kỳ (1982)
Giải thưởng Grawemeyer của Đại học Louisville (2003)
Websitescholar.princeton.edu/kahneman/
Sự nghiệp khoa học
NgànhTâm lý học, Kinh tế học
Nơi công tácĐại học Princeton 1993–
Đại học California, Berkeley 1986–93
Đại học British Columbia 1978–86
Trung tâm Nghiên cứu Cấp cao về Khoa học Hành vi 1972–73
Đại học Hebrew, Jerusalem 1961–77
Luận ánMột phân tích về sự khác biệt ngữ nghĩa (1961)
Người hướng dẫn luận án tiến sĩSusan M. Ervin-Tripp
Các nghiên cứu sinh nổi tiếng
Anat Ninio
Avishai Henik
Baruch Fischhoff
Ziv Carmon

Daniel Kahneman (/ˈkɑːnəmən/; tiếng Hebrew: דניאל כהנמן; 5 tháng 3 năm 1934  – 27 tháng 3 năm 2024) là một nhà tâm lý họcnhà kinh tế học người Mỹ gốc Israel nổi tiếng với công trình nghiên cứu về tâm lý học đánh giáđưa ra quyết định, cũng như kinh tế học hành vi. Ông đã được trao Giải thưởng Tưởng niệm Nobel về Khoa học Kinh tế năm 2002 (cùng Vernon L. Smith). Những phát hiện thực nghiệm của ông thách thức giả định về tính hợp lý của con người, vốn rất phổ biến trong các lý thuyết kinh tế hiện đại.

Cùng với Amos Tversky và những người khác, Kahneman đã thiết lập cơ sở nhận thức cho những sai sót phổ biến của con người, phát sinh từ những suy nghiệm và thiên kiến,[2][3][4] và phát triển lý thuyết triển vọng.[5]

Năm 2011, ông được tạp chí Foreign Policy đưa vào danh sách những nhà tư tưởng hàng đầu thế giới.[6] Cùng năm đó, tác phẩm Tư duy, Nhanh và Chậm tổng hợp nhiều nghiên cứu của ông được xuất bản và trở thành một cuốn sách thuộc hàng best-seller.[7] Năm 2015, tuần báo The Economist đã xếp ông là nhà kinh tế có ảnh hưởng lớn thứ bảy trên toàn cầu.[8]

Ông là Giáo sư Danh dự về Tâm lý học và Công vụ tại Trường Quan hệ quốc tế và Công vụ thuộc Đại học Princeton. Ông cũng là đối tác sáng lập của TGG Group, một công ty tư vấn kinh doanh và từ thiện. Năm 1978, ông kết hôn với nhà tâm lý học nhận thức và thành viên của Hiệp hội Hoàng gia Anne Treisman. Bà mất năm 2018.[9]

Tuổi thơ

Daniel Kahneman sinh ra ở Tel Aviv, Lãnh thổ uỷ trị Palestine ngày 5 tháng 3 năm 1934, nơi mẹ ông, Rachel, ở chơi nhà họ hàng. Đầu những năm 1920, cha mẹ ông đã di cư từ Lithuania đến Paris, Pháp. Đây cũng là nơi ông trải qua những năm đầu đời, gồm cả khi thành phố này bị Đức Quốc xã chiếm đóng vào năm 1940. Cha ông, Efrayim, bị bắt trong đợt vây bắt người Do Thái ở Pháp đầu tiên, nhưng ông được thả sau sáu tuần nhờ sự can thiệp của người quản lý, Eugène Schueller.[10]:52 Gia đình Kahneman đã phải chạy trốn trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến tranh và đã sống sót, chỉ trừ cha Kahneman - người mất năm 1944 vì bệnh tiểu đường. Sau đó, họ chuyển đến Lãnh thổ Uỷ trị Palestine vào năm 1948, ngay trước khi thành lập nhà nước Israel.[11]

Kahneman đã kể lại những trải nghiệm của ông ở Pháp, khi đó bị Đức Quốc xã chiếm đóng, khi giải thích lý do tại sao ông quyết định nghiên cứu về tâm lý học:

"Lúc đó là khoảng cuối năm 1941, đầu 1942. Người Do Thái phải đeo Ngôi sao David và tuân thủ giờ giới nghiêm - 6 giờ tối. Tôi đi chơi với một người bạn theo đạo Cơ đốc và đã về trễ. Tôi lộn mặt trái chiếc áo len màu nâu ra ngoài để đi bộ về nhà qua vài dãy phố. Khi đang đi trên một con đường vắng, một người lính Đức tiến lại gần tôi. Người đó mặc bộ đồng phục màu đen mà tôi được dạy là phải biết sợ hơn so với bất kỳ kẻ nào khác - đó là bộ quân phục chỉ dành cho lính đặc chủng SS. Càng lại gần anh ấy, tôi càng cố đi thật nhanh. Tôi nhận thấy anh ấy nhìn tôi rất chăm chú. Sau đó, anh ra hiệu cho tôi, bế tôi lên và ôm tôi. Tôi đã sợ rằng anh sẽ nhận ra ngôi sao bên trong chiếc áo. Nhưng người đó nói với tôi bằng tiếng Đức. Dường như lúc đó anh rất xúc động. Khi đặt tôi xuống, anh mở ví, cho tôi xem ảnh một cậu bé và cho tôi một ít tiền. Tôi về nhà và biết chắc hơn bao giờ hết rằng mẹ tôi nói đúng: con người vô cùng phức tạp và thú vị."[11]

Học tập và buổi đầu lập nghiệp

Năm 1954, Kahneman nhận bằng cử nhân khoa học chuyên ngành chính tâm lý học và chuyên ngành toán học từ Đại học Hebrew của Jerusalem.

Ông làm việc trong bộ phận tâm lý của Lực lượng Phòng vệ Israel. Một trong những nhiệm vụ của ông là đánh giá các ứng cử viên cho trường đào tạo sĩ quan, đồng thời phát triển các bài kiểm tra và đánh giá cho nhiệm vụ này.

Năm 1958, ông đến Hoa Kỳ để học bằng Tiến sĩ Tâm lý học tại Đại học California, Berkeley. Năm 1961, ông viết luận văn tiến sĩ. Người hướng dẫn của ông là Susan M. Ervin-Tripp. Bài luận đánh giá mối quan hệ giữa các tính từ trong sự khác biệt ngữ nghĩa và "cho phép tôi tham gia vào hai mục tiêu tôi yêu thích: phân tích các cấu trúc tương quan phức tạp và lập trình FORTRAN", như sau này ông nhớ lại.[9]

Sự nghiệp học thuật

Tâm lý học nhận thức

Sự nghiệp học thuật của Kahneman bắt đầu khi ông trở thành giảng viên tâm lý học tại Đại học Hebrew ở Jerusalem vào năm 1961.[9] Năm 1966, ông được thăng ngạch lên giảng viên cao cấp. Những nghiên cứu đầu tiên của ông tập trung vào nhận thức thị giác và chú ý. Bài viết đầu tiên của ông trên tạp chí nổi tiếng Khoa học có tựa đề "Đường kính Đồng tử và Tải trọng của Trí nhớ".[12] Cùng lúc đó, ông là học giả thỉnh giảng tại Đại học Michigan (1965–66) và Nhóm Nghiên cứu Tâm lý học Ứng dụngCambridge (mùa hè năm 1968, 1969). Năm 1966/1967, ông trở thành thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Nhận thức, và là giảng viên tâm lý học nhận thức tại Đại học Harvard.

Phán đoán và ra quyết định

Giai đoạn này đánh dấu sự khởi nguồn của mối quan hệ lâu dài sau này giữa Kahneman và Amos Tversky. Họ đã cũng nhau xuất bản nhiều bài báo chuyên sâu về lĩnh vực phán đoán và ra quyết định nói chung. Trong số đó, đáng chú ý nhất là lý thuyết triển vọng. Sau đó, họ hợp tác với Paul Slovic để biên tập tác phẩm "Phán đoán không chắc chắn: Suy nghiệm và Thiên kiến" (1982). Tác phẩm này tóm tắt những nghiên cứu của họ, cũng như những sự tiến bộ mới mẻ vào thời đó đã có ảnh hưởng đến họ. 23 năm sau lần đầu công bố, Kahneman đã được trao Giải thưởng Tưởng niệm Nobel về Khoa học Kinh tế cho công trình nghiên cứu về lý thuyết triển vọng.

Trong tiểu sử giải Nobel của mình, Kahneman kể rằng ông và Tversky bắt đầu hợp tác với nhau khi ông mời Tversky thuyết trình với vai trò khách mời tại một trong những cuộc hội thảo của ông ở Đại học Hebrew vào khoảng năm 1968 hoặc 1969.[9] Bài báo đầu tiên họ cùng chắp bút, "Niềm tin vào Định luật Số bé", được xuất bản năm 1971.[13] Từ năm 1971 đến 1979, họ viết tổng cộng bảy bài báo đăng trên các tạp chí được bình duyệt. Ngoài "lý thuyết triển vọng", bài quan trọng nhất trong số đó là "Phán đoán không chắc chắn: Suy nghiệm và Thiên kiến". Bài đưa ra khái niệm về mỏ neo, được xuất bản trên tạp chí Science.[4]

Năm 1978, Kahneman rời trường Đại học Hebrew để đến làm việc tại Đại học British Columbia.[9]

Kinh tế học hành vi

Năm học 1977-1978, Kahneman và Tversky cùng là nghiên cứu sinh tại Trung tâm Nghiên cứu Cấp cao về Khoa học Hành vi, Đại học Stanford. Một nhà kinh tế học trẻ tuổi tên Richard Thaler là giáo sư thỉnh giảng tại chi nhánh Stanford của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia khi đó. Theo Kahneman, "[Thaler và tôi] sớm trở thành bạn bè, và từ đó chúng tôi đều có ảnh hưởng đáng kể đến suy nghĩ của người kia". Năm 1980, Thaler đã xuất bản "Hướng tới Giả thuyết Tích cực về Lựa chọn của Người tiêu dùng" dựa trên hầu hết nghiên cứu của Kahneman và Tversky, trong đó có lý thuyết triển vọng. Kahneman gọi bài báo này là "bản tuyên ngôn khai sinh ngành kinh tế học hành vi".[11]

Kahneman và Tversky đã tham gia rất nhiều vào việc phát triển hướng nhìn mới này với lý thuyết kinh tế, và việc này đã khiến họ không còn hợp tác toàn diện và liên tục được như trước. Dù vậy, cho đến khi Tversky mất năm 1996, họ vẫn xuất bản chung rất nhiều tác phẩm. Tuy nhiên, thời kỳ ông gần như chỉ xuất bản chung với Tversky kết thúc vào năm 1983, khi ông xuất bản hai bài báo với Anne Treisman, người vợ thứ hai của ông.

Tâm lý khoái cảm học

Trong những năm 1990, trọng tâm nghiên cứu của Kahneman chuyển dần sang tâm lý khoái cảm học.

Theo Kahneman và cộng sự của ông,

"Tâm lý khoái cảm học... là ngành nghiên cứu về những điều khiến những trải nghiệm và cuộc sống trở nên dễ chịu hoặc khó chịu hơn. Nó liên quan đến cảm giác sung sướng và đau đớn, thích thú và chán ghét, niềm vui và nỗi buồn, thoả mãn và không thoả mãn. Phạm vi của ngành bao hàm tất cả những gì, thuộc đủ phạm trù từ sinh học đến xã hội, gây ra đau khổ và hạnh phúc." [14]

(Ngành này có liên quan mật thiết với phong trào tâm lý học tích cực, khi đó đang dần trở nên phổ biến.)

Rất khó xác định chính xác từ khi nào nghiên cứu của Kahneman bắt đầu tập trung vào khoái cảm học, dù có lẽ những nghiên cứu này xuất phát từ công trình của ông về khái niệm kinh tế "thoả dụng". Sau khi xuất bản nhiều bài báo và ấn phẩm từ 1979 đến 1986 (tổng cộng 23 tác phẩm được xuất bản trong 8 năm), trong những năm 1987-1989, ông chỉ xuất bản một ấn phẩm duy nhất. Sau khoảng thời gian này, các bài báo về thoả dụng và tâm lý học thoả dụng bắt đầu xuất hiện.[15][16][17]

Năm 1992, Varey và Kahneman đã nêu ra phương pháp đánh giá ký ức, một cách để ghi lại "trải nghiệm kéo dài theo thời gian". Trong khi ông tiếp tục nghiên cứu việc ra quyết định,[18][19][20] tâm lý khoái cảm học trở thành trọng tâm của ngày càng nhiều những tác phẩm.[21][22][23][24] Đáng chú ý nhất trong số đó là một tập được Ed DienerNorbert Schwarz, những người nghiên cứu về ảnh hưởng và hạnh phúc. [25]

Ảo giác tập trung

Cùng với David Schkade, Kahneman đã phát triển khái niệm về ảo giác tập trung,[26][27] nhằm giải thích một phần những sai lầm mà con người mắc phải khi ước tính ảnh hưởng của những viễn cảnh khác nhau lên tâm trạng của mình trong tương lai. (Hành vi này còn được gọi là tiên đoán cảm xúc, đã được Daniel Gilbert nghiên cứu rất kỹ). Khi xem xét tác động của một yếu tố cụ thể lên tâm trạng chung của mình, con người có xu hướng phóng đại quá mức tầm quan trọng của yếu tố đó mà bỏ qua nhiều yếu tố khác (trong hầu hết các trường hợp) có tác động lớn hơn.

Bài báo năm 1998 của Kahneman và Schkade "Sống ở California có khiến người ta cảm thấy hạnh phúc không? Áo giác tập trung khi đánh giá mức độ thoả mãn với cuộc sống" đã đưa ra một ví dụ điển hình.[28] Trong bài báo đó, các sinh viên ở vùng Trung Tây và California đã cho thấy mức độ hài lòng về cuộc sống tương đương nhau, nhưng những đối tượng ở Trung Tây lại nghĩ rằng nhóm người sống tại California hạnh phúc hơn. Thông tin khác biệt duy nhất nhóm Trung Tây biết được khi đưa ra đánh giá về những sinh viên kia là họ sống ở California. Do vậy, họ đã "tập trung" vào sự khác biệt này, và từ đó đánh giá quá cao ảnh hưởng của thời tiết California đến mức độ hài lòng với cuộc sống của cư dân.

Hạnh phúc và sự thoả mãn với cuộc sống

Kahneman đã định nghĩa hạnh phúc là "những gì tôi đang trải nghiệm, ngay tại đây và ngay lúc này", nhưng cũng nói rằng, trên thực tế, con người theo đuổi sự hài lòng trong cuộc sống, điều "có liên quan nhiều đến tiêu chuẩn xã hội – như đạt được mục tiêu, hay đáp ứng những kỳ vọng."[29][30]

Quy tắc đỉnh - kết và những ký ức hạnh phúc

Kahneman đã khám phá ra rất nhiều thiên kiến nhận thức thuộc tâm lý khoái cảm học. Một trong số đó là quy tắc đỉnh - kết. Nó ảnh hưởng đến cách chúng ta nhớ lại cảm giác vui sướng hoặc buồn khổ trong ký ức. Quy tắc này chỉ ra rằng ấn tượng tổng thể của chúng ta về các sự kiện trong quá khứ được xác định phần lớn không phải bởi tổng niềm vui và đau khổ mà bởi những cảm xúc khi chạm đỉnh và lúc kết thúc.[31] Ví dụ, ký ức về một lần nội soi đau đớn sẽ bớt đi nhiều nếu ống soi nằm thêm ba phút bên trong cơ thể nhưng không bị di chuyển nữa, dẫn đến cảm giác khó chịu vừa phải. Ký ức về quá trình nội soi kéo dài này, dù về tổng thể là đau hơn, lại được ghi nhớ ít tiêu cực hơn do cơn đau đã giảm đi nhiều ở cuối quá trình. Điều này thậm chí còn tăng khả năng bệnh nhân quay lại khám những lần sau.[32] Kahneman giải thích sự sai lạc này bằng điểm khác biệt giữa hai bản ngã: bản ngã hiện tại, thứ nhận thức niềm vui và đau khổ ở hiện tại, và bản ngã ghi nhớ, thứ tổng hợp tất cả cảm xúc trong những khoảng thời gian dài. Sự sai lạc vì quy tắc đỉnh - kết xảy ra ở bản ngã ghi nhớ. Xu hướng dựa vào bản ngã ghi nhớ thường khiến chúng ta theo đuổi những hành vi không thoả mãn nhu cầu hoặc mong muốn của bản thân.[33][34][35][36]

Giảng dạy

Kahneman là một giảng viên cao cấp và giáo sư danh dự tại khoa Tâm lý học, Đại học PrincetonTrường Quan hệ Quốc tế và Công vụ Princeton. Ông cũng từng làm việc tại Đại học Hebrew và là Nhà khoa học cấp cao của Gallup.[37]

Đời tư

Người vợ đầu tiên của Kahneman là Irah Kahneman,[38] một nhà tâm lý học giáo dục người Israel. Họ có với nhau hai người con. Con trai ông mắc chứng tâm thần phân liệt, còn con gái ông làm việc trong lĩnh vực công nghệ.[39]

Người vợ thứ hai của ông là nhà tâm lý học nhận thức Anne Treisman. Cuộc hôn nhân kéo dài từ năm 1978 cho đến khi bà qua đời vào năm 2018.[40][41]

Năm 2015, Kahneman tự mô tả mình là một người rất chăm chỉ, "một kẻ hay lo lắng" và "không vui tính". Nhưng, ông cũng nói: "Tôi có thể trở nên rất vui, và đã có một cuộc đời thật đẹp."[42]

Giải thưởng

Cống hiến đáng chú ý

Tác phẩm

  • Kahneman, Daniel (1973). Attention and Effort. Prentice-Hall.
  • Kahneman, Daniel; Slovic, Paul; Tversky, Amos (1982). Judgment Under Uncertainty: Heuristics and Biases. Cambridge University Press.
  • Kahneman, Daniel; Diener, E.; Schwarz, N. (1999). Well-being: The Foundations of Hedonic Psychology. Russell Sage Foundation.
  • Kahneman, Daniel; Tversky, Amos (2000). Choices, Values and Frames. Cambridge University Press.
  • Kahneman, Daniel; Gilovich, Thomas; Griffin, Dale (2002). Heuristics and Biases: The Psychology of Intuitive Judgment. ISBN 978-0521792608.
  • Kahneman, Daniel (2011). Thinking, Fast and Slow. Farrar, Straus and Giroux. ISBN 978-0374275631. (Reviewed by Freeman Dyson in New York Review of Books, ngày 22 tháng 12 năm 2011, pp. 40–44.)
  • Kahneman, Daniel; Sibony, Olivier; Sunstein, Cass R. (2021). Noise: A Flaw in Human Judgment. William Collins. ISBN 978-0008308995.

Phỏng vấn

Phỏng vấn trên đài

Phỏng vấn trực tuyến

  • Suy nghĩ về Suy nghĩ - Một cuộc phỏng vấn với Daniel Kahneman (2011) [1] Lưu trữ 2013-10-31 tại Wayback Machine
  • Trò chuyện với Tyler - Daniel Kahneman: Nhận biết nhanh Những điều khó hiểu (2018) [2]
  • Băng Dự án Tri thức - Daniel Kahneman: Đông cứng trực giác của bạn (2019) [3]
  • Băng Lex Fridman thứ 65 - Daniel Kahneman: Tư duy Nhanh và Chậm, Học sâu và Trí tuệ nhân tạo (2020) [4]

Phỏng vấn trên truyền hình

  • Bạn thực sự đưa ra quyết định như thế nào - Horizon (BBC) - 2013–2014, số thứ 9

Liên kết ngoài

Đọc thêm

Tham khảo

  1. ^ “The Sveriges Riksbank Prize in Economic Sciences in Memory of Alfred Nobel 2002”. NobelPrize.org. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  2. ^ Kahneman & Tversky, 1973
  3. ^ Kahneman, Slovic & Tversky, 1982
  4. ^ a b Tversky & Kahneman, 1974
  5. ^ Kahneman & Tversky, 1979
  6. ^ "The Sveriges Riksbank Prize in Economic Sciences in Memory of Alfred Nobel 2002". NobelPrize.org. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  7. ^ “The New York Times Best Seller List – ngày 25 tháng 12 năm 2011” (PDF). www.hawes.com. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2014.
  8. ^ “Influential economists – That ranking”. economist.com. The Economist. ngày 2 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
  9. ^ a b c d e "Influential economists – That ranking". economist.com. 2 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  10. ^ Lewis, Michael (2017) [1st pub. in the USA by W.W. Norton & Company, Inc, 2016]. The Undoing Project: A Friendship That Changed Our Minds. New York: Penguin Random House. ISBN 978-0-14-198304-2.
  11. ^ a b c Kahneman, 2003
  12. ^ Kahneman & Beatty, 1966
  13. ^ Tversky & Kahneman, 1971
  14. ^ Kahneman, Diener & Schwarz 1999.
  15. ^ Kahneman & Snell, 1990
  16. ^ Kahneman & Thaler, 1991
  17. ^ Kahneman & Varey, 1991
  18. ^ Kahneman, 1992
  19. ^ Kahneman, 1994
  20. ^ Kahneman & Lovallo, 1993
  21. ^ Fredrickson & Kahneman, 1993
  22. ^ Kahneman, Fredrickson, Schreiber & Redelemeier, 1993
  23. ^ Kahneman, Wakker & Sarin, 1997
  24. ^ Redelmeier & Kahneman, 1996
  25. ^ Kahneman, Diener & Schwarz 1999.
  26. ^ Kahneman & Schkade, 1998
  27. ^ Kahneman, Krueger, Schkade, Schwarz & Stone, 2006
  28. ^ Schkade, David A.; Kahneman, Daniel (ngày 6 tháng 5 năm 2016). “Does Living in California Make People Happy? A Focusing Illusion in Judgments of Life Satisfaction” (PDF). Psychological Science (bằng tiếng Anh). 9 (5): 340–346. doi:10.1111/1467-9280.00066. ISSN 1467-9280. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  29. ^ Mandel, Amir (ngày 7 tháng 10 năm 2018). “Why Nobel Prize Winner Daniel Kahneman Gave Up on Happiness”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021 – qua Haaretz.
  30. ^ Livni, Ephrat. “A Nobel Prize-winning psychologist says most people don't really want to be happy”. Quartz. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  31. ^ Do, Amy M.; Rupert, Alexander V.; Wolford, George (ngày 1 tháng 2 năm 2008). “Evaluations of pleasurable experiences: The peak–end rule”. Psychonomic Bulletin & Review (bằng tiếng Anh). 15 (1): 96–98. doi:10.3758/PBR.15.1.96. ISSN 1531-5320. PMID 18605486. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  32. ^ Redelmeier, Donald A.; Katz, Joel; Kahneman, Daniel (tháng 7 năm 2003). “Memories of colonoscopy: a randomized trial”. Pain. 104 (1–2): 187–194. doi:10.1016/s0304-3959(03)00003-4. ISSN 0304-3959. PMID 12855328. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  33. ^ Kahneman, Daniel (2011). “35. Two Selves”. Thinking, Fast and Slow. New York: Farrar, Straus & Giroux. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  34. ^ Lazari-Radek, Katarzyna de; Singer, Peter (2014). The Point of View of the Universe: Sidgwick and Contemporary Ethics. Oxford University Press. tr. 276. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  35. ^ “Memory Vs. Experience: Happiness is Relative”. Association for Psychological Science - APS. Truy cập 28 tháng 3 năm 2024.
  36. ^ Lex Fridman Podcast #65 – Daniel Kahneman: Thinking Fast and Slow, Deep Learning, and AI (2020)
  37. ^ Lazari-Radek, Katarzyna de; Singer, Peter (2014). The Point of View of the Universe: Sidgwick and Contemporary Ethics Lưu trữ 2021-04-14 tại Wayback Machine. Oxford University Press. Trang 276.
  38. ^ “Daniel Kahneman Facts”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021. In January of 1958, my wife, Irah, and I landed at the San Francisco airport, where the now famous sociologist Amitai Etzioni was waiting to take us to Berkeley, to the Flamingo Motel on University Avenue, and to the beginning of our graduate careers.
  39. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  40. ^ “How do we really make decisions?”. Horizon. Loạt 2013-2014. Tập 9. ngày 24 tháng 2 năm 2014. Sự kiện xảy ra vào lúc 00:20:13. BBC. BBC Two. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2019. I live in Berkeley during summers and I walk a lot.
  41. ^ Shariatmadari, David (ngày 15 tháng 7 năm 2015). “A life in... Interview Daniel Kahneman: 'What would I eliminate if I had a magic wand? Overconfidence'. The Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021. He has been married since 1978 to the perceptual psychologist Anne Treisman.
  42. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  43. ^ “Daniel Kahneman”. www.nasonline.org. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  44. ^ “2003- Daniel Kahneman and Amos Tversky”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2015.
  45. ^ “And the Winners Are ...”. Keck Futures Initiative. National Academy of Sciences. ngày 12 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2013. An outstanding and accessible book that brings to the public key scientific insights about how we think and make decisions.
  46. ^ “His Excellency Dr. Daniel Kahneman”. racef.es. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  47. ^ “President Obama Names Presidential Medal of Freedom Recipients”. Office of the Press Secretary, The White House. ngày 8 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  48. ^ “McGill to award 16 honorary degrees: McGill Reporter”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  49. ^ “Gold Medal Honorees”. The National Institute of Social Sciences. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  50. ^ “Golden Plate Awardees of the American Academy of Achievement”. www.achievement.org. American Academy of Achievement. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.
  51. ^ “2019 Summit Highlights Photo: Anthony D. Romero, Executive Director of the American Civil Liberties Union, presenting the Golden Plate Award to Dr. Daniel Kahneman, a recipient of the Nobel Prize in Economics, at the 2019 International Achievement Summit”. American Academy of Achievement. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2021.

Read other articles:

Azerbaijani writer and politician (1887–1943) Yusif Vazir ChamanzaminliYusif Vazir photographed as a law student in 1911BornYusif Mirbaba oghlu Vazirov(1887-09-12)12 September 1887Shusha, Russian EmpireDied3 January 1943(1943-01-03) (aged 55)Sukhobezvodnoye Gulag camp near Gorky, USSRPen nameChamanzaminli, Kurban Said, Ali Khan Chamanzaminli and about a dozen other minor pen names.OccupationNovelist, short story writer, essayist, political activistLanguageAzerbaijani, RussianNationalit...

 

Miêu tả Mô tả tập tin phương tiện không tự do và việc sử dụng một cách hợp lý- biểu trưng không tự do  trong Trường Cơ khí, Đại học Bách khoa Hà Nội Mô tả Đây là biểu trưng do Trường Cơ khí, Đại học Bách khoa Hà Nội sở hữu để đại diện cho Trường Cơ khí, Đại học Bách khoa Hà Nội. Nguồn Biểu trưng được lấy từ trang web https://www.facebook.com/photo/?fbid=3007526169492621&...

 

يفتقر محتوى هذه المقالة إلى الاستشهاد بمصادر. فضلاً، ساهم في تطوير هذه المقالة من خلال إضافة مصادر موثوق بها. أي معلومات غير موثقة يمكن التشكيك بها وإزالتها. (فبراير 2016) أرىمعلومات عامةالنوع مجلة أسبوعيةالتأسيس 2011الثمن 10 دراهم إماراتيّةشخصيات هامةالمدير التنفيذي ظاعن شاهي

Vilvoorde Vilvoorde (Flämisch-Brabant) Vilvoorde Staat: Belgien Belgien Region: Flandern Provinz: Flämisch-Brabant Bezirk: Halle-Vilvoorde Koordinaten: 50° 56′ N, 4° 25′ O50.9272222222224.4241666666667Koordinaten: 50° 56′ N, 4° 25′ O Fläche: 21,48 km² Einwohner: 46.354 (1. Jan. 2022) Bevölkerungsdichte: 2158 Einwohner je km² Postleitzahl: 1800 Vorwahl: 02-015 Bürgermeister: Hans Bonte (Vooruit) Adresse derKommunalverwaltung:...

 

Fotografie eines jungen Amiga-Spielers aus England in den frühen 1990ern, welcher Factor 5s Turrican spielt. Turrican ist der Name einer Reihe populärer Run-and-Gun-Computer- und Videospiele. In diesen steuert der Spieler eine Figur durch mehrere, in alle Richtungen scrollende Science-Fiction-Welten, um dabei mit futuristischen Schuss- und Laserwaffen gegen diverse Gegner und Endgegner zu bestehen. Der Spieler kann sich zudem in einen zermalmenden Wirbel verwandeln (3 × pro Leben mög...

 

Australian filmCleanDirected byLachlan McleodWritten byLachlan McleodProduced byDavid Elliot-jones, Charlotte WheatonStarringSandra PankhurstEdited byLouis DaiMusic byPatrick GriggProductioncompanyWalking Fish ProductionsDistributed byRocket ScienceCountryAustraliaLanguageEnglish Clean is a 2022 documentary about the life of Sandra Pankhurst.[1][2] The film follows Pankhurst and her team of cleaners who clean crime scenes, places where people have committed suicide, and incide...

Artikel ini perlu diwikifikasi agar memenuhi standar kualitas Wikipedia. Anda dapat memberikan bantuan berupa penambahan pranala dalam, atau dengan merapikan tata letak dari artikel ini. Untuk keterangan lebih lanjut, klik [tampil] di bagian kanan. Mengganti markah HTML dengan markah wiki bila dimungkinkan. Tambahkan pranala wiki. Bila dirasa perlu, buatlah pautan ke artikel wiki lainnya dengan cara menambahkan [[ dan ]] pada kata yang bersangkutan (lihat WP:LINK untuk keterangan lebih lanjut...

 

本條目有隱藏内容,可能會损害讀者的閱覽体验。請協助改善條目,以符合维基百科标准。 (2015年9月12日)一般應該僅由特定標準化模板提供摺疊資料表格,勿因故事劇情或項目混雜而隱藏;內容應該考慮其他方式呈現。重複記載、過度細節與無助了解主題的堆砌內容等需要考慮除去。 秀英女演员本名崔秀榮[1][2]原文名최수영罗马拼音Choi Soo-young[3]昵称食神...

 

Wappen Deutschlandkarte p1 Basisdaten (Stand 2006) Bestandszeitraum: 1994–2006 Bundesland: Sachsen-Anhalt Verwaltungssitz: Merseburg Fläche: 827,22 km2 Einwohner: 130.434 (31. Dez. 2006) Bevölkerungsdichte: 158 Einwohner je km2 Kfz-Kennzeichen: MQ Kreisschlüssel: 15 2 61 Kreisgliederung: 38 Gemeinden Adresse der Kreisverwaltung: Domplatz 906217 Merseburg Website: www.merseburg-querfurt.de Landrat: Tilo Heuer (SPD) Lage des Landkreises Merseburg-Querfurt i...

The 120 members of the ninth Knesset were elected on 17 May 1977. The breakdown by party was as follows: Likud: 43 Alignment: 32 Democratic Movement for Change: 15 National Religious Party: 12 Hadash: 5 Agudat Yisrael: 4 United Arab List: 1 Flatto-Sharon: 1* Shlomtzion: 2 Left Camp of Israel: 2 Poalei Agudat Yisrael: 1 Ratz: 1 Independent Liberals: 1 * Flatto-Sharon won enough votes for two seats, but was a one-man list List of members Member Party Notes Moshe Arens Likud Yoram Aridor Likud E...

 

Nummer-eins-Singles 2011 < 2010 in den norwegischen Charts 2012 > DatumWochen Titel / InterpretAutor(en) Information 1/20111 Woche This Is the LifeAmy MacdonaldAmy Macdonald, Pete Wilkinson Wiedereinstieg des Top-Ten-Hits von 2008 auf Platz 1 nach der Verwendung in einem Werbespot 2/20111 Woche Barbra StreisandDuck SauceHeinz Huth, Jürgen Huth, Fred Jay, Frank Farian, Armand Van Helden, Alain Macklovitch zweiter Hit für Van Helden, erster für A-Trak in Norwegen 3/20113 Wochen Grenade...

 

Japanese footballer Seiichiro Maki Personal informationFull name Seiichiro Maki[1]Date of birth (1980-08-07) 7 August 1980 (age 43)Place of birth Uki, Kumamoto, JapanHeight 1.84 m (6 ft 0 in)Position(s) ForwardYouth career1996–1998 Ozu High School1999–2002 Komazawa UniversitySenior career*Years Team Apps (Gls)2003–2010 JEF United Chiba 220 (53)2010 Amkar Perm 9 (0)2011 Shenzhen Ruby 4 (0)2011–2013 Tokyo Verdy 51 (7)2014–2018 Roasso Kumamoto 167 (9)Total 4...

American clergyman and abolitionist Albert BarnesEngraving of Barnes by George E. PerineBornDecember 1, 1798Rome, New YorkDiedDecember 24, 1870 (aged 72)Philadelphia, PennsylvaniaOccupation(s)theologian, author Albert Barnes (December 1, 1798 – December 24, 1870)[1] was an American theologian, clergyman, abolitionist, temperance advocate, and author. Barnes is best known for his extensive Bible commentary and notes on the Old and New Testaments, published in a total of 14 volumes in...

 

American comedian (born 1983) Hannibal BuressBuress in 2019BornHannibal Amir Buress (1983-02-04) February 4, 1983 (age 40)Chicago, Illinois, U.S.Occupations Comedian actor producer writer Years active2002–presentChildren1Comedy careerMedium Stand-up comedy film television Genres Observational comedy black comedy blue comedy satire surreal humour Subject(s) African-American culture American politics current events everyday life human sexuality popular culture race relations racism ...

 

German operatic bass (1937–2022) Erich SyriBorn(1937-12-08)December 8, 1937Andernach, GermanyDiedSeptember 8, 2022(2022-09-08) (aged 84)Lampertheim, GermanyOccupationOpera singerYears active1962–1999 Erich Syri (8 December 1937 – 8 September, 2022)[1] was a German Bass opera singer. Life Syri was born in Andernach. After initial singing lessons with Elly Lauer in Neuwied, he studied singing with Professor Clemens Glettenberg at the State University of Music in Cologne....

German sculptor You can help expand this article with text translated from the corresponding article in German. (May 2010) Click [show] for important translation instructions. View a machine-translated version of the German article. Machine translation, like DeepL or Google Translate, is a useful starting point for translations, but translators must revise errors as necessary and confirm that the translation is accurate, rather than simply copy-pasting machine-translated text into the En...

 

This article is an orphan, as no other articles link to it. Please introduce links to this page from related articles; try the Find link tool for suggestions. (August 2016) Dead Mare Wash is a valley in the Dixie National Forest in south-central Garfield County, Utah, United States.[1] Dead Mare Wash was so named on account of a mare which was found dead there.[2] See also Utah portal Arroyo (creek) List of rivers of Utah List of valleys of Utah References ^ U.S. Geological Su...

 

Artikel ini sebatang kara, artinya tidak ada artikel lain yang memiliki pranala balik ke halaman ini.Bantulah menambah pranala ke artikel ini dari artikel yang berhubungan atau coba peralatan pencari pranala.Tag ini diberikan pada Januari 2016. Aretaphila dari Kirene (sek. tahun 50 SM, Kirene, negara jajahan di Afrika Utara Yunani kuno) merupakan seorang wanita bangsawan yang menurut Plutarkhos di dalama karyanya De mulierum virtutes (Di dalam kebajikan wanita),[1] menggulingkan tiran...

PoliceSutradaraCharlie ChaplinProduserJess RobbinsDitulis olehCharlie ChaplinPemeranCharles ChaplinEdna PurvianceWesley RugglesJames T. KelleyLeo WhiteJohn RandFred GoodwinsBilly ArmstrongSnub PollardBud JamisonPaddy McGuireGeorge CleethorpeSinematograferHarry EnsignPerusahaanproduksiEssanay StudiosDistributorGeneral Film CompanyTanggal rilis 27 Mei 1916 (1916-05-27) Durasi34 menitNegaraAmerika SerikatBahasaBisu (intertitel Inggris) Police Police adalah film ke-14 Charlie Chaplin dengan ...

 

Untuk kegunaan lain, lihat Purple Heart (disambiguasi). Purple Heart Medali Purple Heart Dianugerahkan oleh Angkatan Bersenjata Amerika Serikat Jenis Medali militer (Dekorasi) Persyaratan penerima Personil militer Dianugerahkan atas dasar Yang terluka atau tewas dalam aksi apapun melawan musuh Amerika Serikat atau sebagai hasil dari tindakan dari musuh manapun semacam itu atau angkatan bersenjata yang melawan Status Masih dianugerahi Keterangan Bagian depan gambar George Washington Statistik ...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!