Cộng hòa đại nghị hay cộng hòa nghị viện là một hình thức cộng hòa mà nguyên thủ quốc gia được bầu ra và quốc gia đó có một nghị viện mạnh và các thành viên chính của bộ phận hành pháp được chọn ra từ nghị viện đó.
Ngược lại với nền cộng hòa tổng thống và nền cộng hòa bán tổng thống, tổng thống ở những quốc gia có nền Cộng hòa đại nghị thường không có quyền hành pháp rộng lớn bởi vì nhiều quyền trong đó được trao cho người đứng đầu chính phủ (thường được gọi là thủ tướng). Tuy nhiên, người đứng đầu chính phủ và nguyên thủ quốc gia có thể là một chức vụ ở nền cộng hòa đại nghị (như ở Cộng hòa Nam Phi và Botswana), nhưng tổng thống vẫn được bầu theo một cách gần tương tự đối với nhiều nước theo hệ thống Westminster. Có một số trường hợp cá biệt, theo luật, tổng thống được có quyền hành pháp để điều hành công việc hàng ngày của chính phủ (ví dụ Phần Lan hay Ireland) nhưng thông thường họ không dùng những quyền này. Do đó, một số nền cộng hòa đại nghị được xem như là một chế độ bán tổng thống nhưng hoạt động dưới quyền nghị viện.
Tuy nhiên, trong một nước cộng hòa nghị viện với nguyên thủ quốc gia có nhiệm kì phụ thuộc vào quốc hội, thì người đứng đầu chính phủ và nguyên thủ quốc gia có thể thành lập một văn phòng (như ở Botswana, Quần đảo Marshall, Nauru và Nam Phi), nhưng tổng thống thì vẫn được chọn theo cách giống như thủ tướng trong các hệ thống Westminster. Điều này có nghĩa là, họ là lãnh đạo của đảng lớn nhất hoặc liên minh các đảng trong quốc hội.
Trong một số trường hợp, tổng thống có thể được cấp quyền hành pháp một cách hợp lệ cho họ để thực hiện việc điều hành chính phủ hàng ngày (như ở Áo và Iceland) nhưng theo quy ước, họ không sử dụng những quyền này theo lời khuyên của quốc hội hoặc người đứng đầu chính phủ. Do đó, một số nước cộng hòa nghị viện có thể được coi là theo chế độ bán tổng thống nhưng hoạt động theo hệ thống nghị viện.
Lịch sử phát triển
Điển hình, nền cộng hòa đại nghị là những quốc gia trước đây theo chế độ quân chủ lập hiến mà người đứng đầu nhà nước cho đến nay là quốc vương (và trong trường hợp Khối Thịnh vượng chung Anh, trước đây được một toàn quyền - Governor General - đại diện) đang được thay thế bằng một tổng thống không có quyền hành pháp. Cũng có nhiều nền cộng hòa đại nghị một thời đã là nhà nước đơn đảng như ở khối Đông Âu hay Liên Xô.
Sau thất bại của Napoléon III trong Chiến tranh Pháp–Phổ, Pháp một lần nữa trở thành một nước cộng hòa - nền Đệ Tam Cộng hoà Pháp - vào năm 1870. Tổng thống của Đệ Tam Cộng hoà có ít quyền hành pháp hơn đáng kể so với hai nền cộng hòa trước đó. Đệ Tam Cộng hoà kéo dài cho đến khi phát xít Đức xâm lược Pháp vào năm 1940. Sau khi chiến tranh kết thúc, nền Đệ Tứ Cộng hoà của Pháp được thành lập theo những đường lối tương tự vào năm 1946. Đệ Tứ Cộng hoà chứng kiến một kỉ nguyên phát triển kinh tế lớn ở Pháp và việc xây dựng lại các thể chế xã hội và công nghiệp của quốc gia sau chiến tranh, đóng một phần quan trọng trong sự phát triển của quá trình hội nhập châu Âu, vốn đã thay đổi lục địa này vĩnh viễn. Một số nỗ lực đã được thực hiện nhằm củng cố cơ quan hành pháp của chính phủ nhằm ngăn chặn tình trạng bất ổn đã có từ trước chiến tranh, nhưng sự bất ổn vẫn còn đó và nền Đệ Tứ Cộng hoà cũng chứng kiến sự thay đổi chính phủ liên tục - 20 chính phủ trong vòng 10 năm. Ngoài ra, chính phủ tỏ ra không thể đưa ra các quyết định hiệu quả liên quan đến phi thực dân hóa. Kết quả là, nền Đệ Tứ Cộng hoà sụp đổ, điều mà một số nhà phê bình coi là một cuộc đảo chính trên thực tế, sau đó được hợp pháp hóa bằng một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 5 tháng 10 năm 1958, dẫn đến việc thành lập nền Đệ Ngũ Cộng hoà của Pháp vào năm 1959.
Chile trở thành nước cộng hòa nghị viện đầu tiên ở Nam Mĩ sau cuộc nội chiến năm 1891. Tuy nhiên, sau vụ đảo chính năm 1925, hệ thống này được thay thế bằng chế độ tổng thống.
Kể từ Tuyên bố Luân Đôn ngày 29 tháng 4 năm 1949 (chỉ vài tuần sau khi Ireland tuyên bố là nước cộng hòa và tự loại khỏi Khối Thịnh vượng chung), các nước cộng hòa đã được thừa nhận là thành viên của Khối Thịnh vượng chung.
Trong trường hợp có nhiều nước cộng hòa trong Khối Thịnh vượng chung các quốc gia (trước đây được đại diện bởi một vị Toàn quyền) được thay thế bằng một nguyên thủ quốc gia được bầu lên (mà không đứng đầu chính phủ). Đây là trường hợp của Nam Phi (quốc gia không còn là thành viên của Khối Thịnh vượng chung ngay sau khi trở thành một nhà nước cộng hòa), Malta, Trinidad và Tobago, Ấn Độ, Vanuatu, và mới đây là Barbados. Trong nhiều trường hợp này, vị Toàn quyền cuối cùng trở thành Tổng thống đầu tiên. Đó là trường hợp của Sri Lanka và Pakistan.
Các nhà nước khác thì trở thành cộng hòa nghị viện sau khi giành được độc lập.
Danh sách các nước cộng hòa đại nghị hiện nay và các chế độ liên quan
Chế độ quân chủ lập hiến (Đài Loan thuộc Đế quốc Nhật Bản)
Trên danh nghĩa; Hiến pháp đã được thay thế một phần bởi các điều khoản bổ sung quy định một nước cộng hòa bán tổng thống với các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp và một cơ quan lập pháp đơn viện. Các điều khoản bổ sung này có một điều khoản hoàng hôn sẽ chấm dứt chúng trong trường hợp giả định có một sự nối lại thống trị của Trung Hoa Dân Quốc ở Trung Quốc đại lục.
Ba Lan cũng được xác định là một nước cộng hòa bán tổng thống trên thực tế vì Tổng thống thực hiện một số hình thức quản trị và bổ nhiệm Thủ tướng làm người đứng đầu chính phủ. Quyết định sau đó phải được Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm.[10][11][12][13]
^Veser, Ernst (23 tháng 9 năm 1997). “Semi-Presidentialism-Duverger's Concept — A New Political System Model”(PDF) (bằng tiếng Anh và Trung). Department of Education, School of Education, University of Cologne. tr. 39–60. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2017. Duhamel has developed the approach further: He stresses that the French construction does not correspond to either parliamentary or the presidential form of government, and then develops the distinction of 'système politique' and 'régime constitutionnel'. While the former comprises the exercise of power that results from the dominant institutional practice, the latter is the totality of the rules for the dominant institutional practice of the power. In this way, France appears as 'presidentialist system' endowed with a 'semi-presidential regime' (1983: 587). By this standard he recognizes Duverger's pléiade as semi-presidential regimes, as well as Poland, Romania, Bulgaria and Lithuania (1993: 87).
^Shugart, Matthew Søberg (tháng 12 năm 2005). “Semi-Presidential Systems: Dual Executive And Mixed Authority Patterns”(PDF). French Politics. 3 (3): 323–351. doi:10.1057/palgrave.fp.8200087. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2017. Even if the president has no discretion in the forming of cabinets or the right to dissolve parliament, his or her constitutional authority can be regarded as 'quite considerable' in Duverger's sense if cabinet legislation approved in parliament can be blocked by the people's elected agent. Such powers are especially relevant if an extraordinary majority is required to override a veto, as in Mongolia, Poland, and Senegal. In these cases, while the government is fully accountable to parliament, it cannot legislate without taking the potentially different policy preferences of the president into account.
^Mọi danh sách ứng cử viên cho Nghị viện cũng phải có một ứng cử viên cho chức Tổng thống và người có nhiều phiếu bầu nhất đương nhiên có ứng viên được bầu làm Tổng thống.