Chào mừng bạn đến với chủ đề Đồng tính, song tính và hoán tính
LGBT là một từ viết tắt từ chữ đầu trong cụm từ "Lesbian, Gay, Bisexual, và Transgender", được hiểu lần lượt là "người đồng tính nữ, người đồng tính nam, song tính luyến ái, người chuyển giới". Một biến thể khác là LGBTQ được hiểu là "Queer" (có xu hướng tính dục và bản dạng giới khác biệt, hoặc không nhận định mình theo bất kỳ nhãn nào) hoặc "Questioning" (đang trong giai đoạn tìm hiểu bản thân). Trong khi đó, với việc bổ sung dấu cộng trở thành LGBTQ+ có thể hiểu như bao gồm những người là một phần của cộng đồng, nhưng LGBTQ chưa thể phản ánh chính xác bản dạng giới hoặc xu hướng tính dục của họ như: Non-binary (phi nhị nguyên giới), Intersex (liên giới tính), Asexual (vô tính luyến ái)... Một số khác cũng có cách gọi như GLBT hay GLBTQ, thay đổi các thứ tự chữ cái viết tắt. Thuật ngữ này đã bắt đầu xuất hiện từ những năm cuối thập niên 1980.
Đồng tính luyến ái ở Trung Quốc còn tương đối chưa rõ ràng mặc dù lịch sử có nhiều ghi chép về đồng tính luyến ái trong các triều đạiphong kiến. Từ đồng tính luyến (同性戀) chỉ tình yêu cùng giới hay đồng tính luyến giả (同性戀者) chỉ người yêu cùng giới được dùng chính thức. Tuy nhiên từ đồng chí (同志 – tongzhi) hay nữ đồng chí (女同志) thì phổ biến hơn trong cộng đồng người đồng tính. Từ này được dùng đầu tiên bởi các nhà hoạt động đồng tính ở Hồng Kông sau đó nó được dùng như tiếng lóng ở Trung Hoa đại lục. Việc có con đặc biệt là con trai để nối dõi tông đường thì rất quan trọng trong xã hội Trung Hoa cổ xưa cho nên một người đàn ông có bạn đời là đàn ông là không hoàn thành bổn phận. Ngoài ra, Lão giáo đề cao Thuyết Âm Dương nên mối quan hệ dương-dương giữa hai người đàn ông là không cân bằng và không ổn định.
Ngày 14 tháng 3 năm 2010, Judith Vazquez và Lol Kin Castaneda trở thành đôi kết hôn đồng giới hợp pháp ở Thành phố Mexico, sau khi luật cho phép hôn nhân đồng giới được thông qua.[1]
Ngày 13 tháng 3 năm 2010, New South Wales, Úc, làm nên lịch sử trong lĩnh vực giới tính khi trở thành nơi đầu tiên trên thế giới công nhận giới tính 'không xác định'.[2]
Ngày 15 tháng 2 năm 2010, Pháp trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới loại bỏ hoán tính ra khỏi danh sách các rối loạn tâm thần.[3]
Ngày 8 tháng 1 năm 2010, Quốc hội Bồ Đào Nha bầu bỏ phiếu thông qua hôn nhân đồng giới. Bồ Đào Nha trở thành quốc gia thứ 6 ở châu Âu hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Luật sẽ có hiệu lực bắt đầu từ tháng 4.[4]
Ngày 7 tháng 1 năm 2010, dự luật cho phép hôn nhân đồng giới không được thông qua ở bang New Jersey, Hoa Kỳ. Có 14 phiếu thuận và 20 phiếu chống.[5]
Ngày 1 tháng 1 năm 2010, Áo công nhận đăng ký kết đôi đồng giới.[6]
Sinh viên đồng tính đang hôn nhau ngay trước những người phản đối đồng tính luyến ái ở Đại học Oberlin (Oberlin, Ohio, Hoa Kỳ) tháng 5 năm 2000. Vài trăm sinh viên đã chống lại những người phản đối.
Tôi lớn lên trong một môi trường dị tính luyến ái, vì tất cả họ là dị tính luyến ái. Những người đồng tính chúng tôi đến từ nơi đó. Quí vị những người dị tính luyến ái. I was raised around heterosexuals, as all heterosexuals are. That's where us gay people come from. You heterosexuals.
Trong 4 thập kỷ ca nhạc của mình, Elton John đã là một trong những lực lượng chi phối nhạc rock và pop, đặc biệt là thập niên 1970. Elton đã bán hơn 550 triệu bản album cộng với hàng trăm triệu đĩa đơn, khiến cho ông là một trong những nghệ sĩ thành công nhất mọi thời đại. Ông đã có hơn 50 hit của Top 40 bao gồm bảy ablum số 1 Mỹ liên tục, 59 Top 40 đĩa đơn, 16 Top 10, 4 #2 hit, và 9 #1 hit. Thành công của ông đã có một ảnh hưởng sâu đối với nhạc phổ thông và đã góp phần vào sự phổ biến gia tăng của piano trong nhạc rock and roll. Năm 2004, Tạp chí Rolling Stone đã xếp Elton John #49 trong danh sách những nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại của họ.
...Một thế giới không có đàn bà, cuốn tiểu thuyết về những người đồng tính ở Việt Nam của nhà văn Bùi Anh Tấn, đã từng bị nhà xuất bản thay đổi đoạn kết?
...theo nghiên cứu, “hiệu ứng anh trai” là hiện tượng khi một người đàn ông có càng nhiều anh trai thì khả năng người đó là đồng tính càng cao?