Đá sừng

Một mẫu vật đá sừng thành dải, do biến chất tiếp xúc của sa thạchđá phiến sét với granit xâm nhập sinh ra.

Đá sừng là tên gọi chung để chỉ một tập hợp các loại đá biến chất tiếp xúc bị nhiệt của các khối đá hỏa sinh xâm nhập nung nóng và cứng lại để trở thành khối đá đồ sộ, cứng, dễ vỡ vụn và trong một số trường hợp thì cực kỳ dai và bền. Những tính chất này là do các tinh thể hạt mịn không gióng hàng với dạng thường tinh thể hình phiến hoặc lăng trụ đặc trưng của sự biến chất ở nhiệt độ cao nhưng không có biến dạng kèm theo.[1][2][3] Tên gọi đá sừng là phiên dịch từ tiếng Đức hornfels, vì độ dẻo dai và kết cấu khác thường của nó gợi nhớ đến sừng động vật. Thuật ngữ hornfels được Karl Cäsar von Leonhard sử dụng lần đầu năm 1823.[4] Loại đá này được những người thợ mỏ ở miền bắc nước Anh gọi là đá mài.[5][6]

Hầu hết các loại đá sừng đều có dạng hạt mịn, và trong khi các loại đá gốc (như sa thạch, đá phiến sét, đá bảngđá vôi) có thể đã tách phiến nhiều hay ít do sự hiện diện của lớp móng hoặc các mặt phẳng cát khai, cấu trúc này hoặc là bị xóa bỏ hoặc bị biến đổi không hoạt động trong đá sừng. Mặc dù nhiều loại đá sừng cho thấy dấu tích của sự tạo móng ban đầu,[1] chúng vỡ ngang cũng dễ dàng như vỡ dọc theo móng này; trên thực tế, chúng có xu hướng phân tách thành các mảnh hình khối lập phương hơn là thành các phiến mỏng. Các khoáng vật dạng phiến có thể có nhiều trong đá sừng nhưng được sắp xếp ngẫu nhiên.[7]

Đá sừng hình thành phổ biến nhất ở vành các xâm nhập granit trong lớp vỏ trên hoặc lớp vỏ giữa. Đá sừng hình thành từ quá trình biến chất tiếp xúc do hoạt động núi lửa rất gần bề mặt có thể tạo ra các khoáng vật bất thường và khác biệt.[1][2] Đôi khi xảy ra những thay đổi về thành phần do các chất lưu được thể magma tạo ra (tác dụng thay đổi thể hay tác dụng biến đổi nhiệt dịch).[8] Tướng đá sừng là thuật ngữ để chỉ tướng đá biến chất chiếm phần áp suất thấp nhất của không gian nhiệt độ-áp suất biến chất.[9]

Loại đá sừng phổ biến nhất là đá sừng biotit có màu từ nâu sẫm tới đen với một chút ánh mượt như nhung do có nhiều tinh thể mica nhỏ màu đen sáng bóng. Đá sừng vôi thường có màu trắng, vàng, lục nhạt, nâu và các màu khác. Màu xanh lục và xanh lục sẫm là các sắc màu phổ biến của đá sừng tạo ra do sự biến đổi của đá hỏa sinh.[10] Mặc dù phần lớn các hạt cấu thành là quá nhỏ để có thể xác định bằng mắt thường, nhưng thường có các tinh thể lớn hơn (các ban tinh đốm) của cordierit, granat hoặc andalusit rải rác trong khắp chất nền mịn, và chúng có thể rất dễ thấy trên các mặt bị phong hóa của đá.[11]

Cấu trúc

Cấu trúc của những đá sừng rất đặc trưng. Rất hiếm khi bất kỳ khoáng vật nào thể hiện dạng tinh thể, nhưng các hạt nhỏ lại khít chặt cùng nhau như những mảnh khảm; chúng thường có kích thước gần như bằng nhau. Điều này được gọi là cấu trúc mặt đường ốp lát, từ sự tương đồng với việc lát mặt đường lởm chởm. Mỗi khoáng vật cũng có thể bao quanh các hạt của những khoáng vật khác; ví dụ, trong thạch anh các tinh thể graphit, biotit, sắt oxide, sillimanit hoặc felspat có thể xuất hiện với số lượng lớn. Thường thì tổng thể các hạt được biểu hiện nửa trong mờ theo cách này. Các tinh thể nhỏ nhất có thể cho thấy dấu vết của các đường viền tinh thể, cho thấy chúng được hình thành mới và có nguồn gốc tại chỗ. Điều này khiến người ta tin rằng đá tổng thể đã được tái kết tinh ở nhiệt độ cao và ở trạng thái rắn nên có rất ít khoảng trống tự do để các phân tử khoáng vật tích tụ thành các tinh thể định rõ. Sự tái sinh của đá là đủ để xóa bỏ phần lớn các cấu trúc ban đầu và thay thế ở mức độ ít hay nhiều các khoáng vật cũ bằng các khoáng vật mới. Nhưng sự kết tinh đã bị tình trạng rắn của khối đá cản trở và các khoáng vật mới này không có hình dạng và không thể loại bỏ các tạp chất, mà phát triển xung quanh chúng.[10]

Thành phần của đá sừng

Mẫu vật đá sừng thu thập tại Normandy, Pháp.

Pelit

Sét, đá bảng trầm tích và đá phiến sét tạo ra đá sừng biotit, trong đó phần lớn các khoáng vật dễ thấy nhất là mica biotit, với các vảy nhỏ của nó là trong suốt dưới kính hiển vi và có màu nâu ánh đỏ sẫm và tính lưỡng sắc mạnh. Ngoài ra còn có thạch anh và thường có một lượng đáng kể felspat, trong khi graphit, tourmalin và các oxide sắt thường xuất hiện với số lượng ít hơn. Trong các đá sừng biotit này thì các khoáng vật chứa các nhôm silicat thường được tìm thấy; chúng thường là andalusitsillimanit, nhưng kyanit cũng xuất hiện trong các loại đá sừng, đặc biệt là ở những loại có đặc trưng đá phiến. Andalusit có thể có màu hồng và thường đa sắc ở các tiết diện mỏng, hoặc có thể có màu trắng với các vỏ bao hình chữ thập sẫm màu của chất nền là đặc trưng của chiastolit. Sillimanit thường tạo thành các hình kim cực nhỏ nằm trong thạch anh.[10]

Trong các loại đá của nhóm này không hiếm khi cũng có cordierit, và có thể có các đường viền của các lăng trụ lục giác không hoàn hảo được chia thành sáu hình quạt khi được nhìn trong ánh sáng phân cực. Trong đá sừng biotit, một dải sọc mờ có thể chỉ ra sự tạo móng nguyên thủy của đá không bị thay đổi và tương ứng với các thay đổi nhỏ trong bản chất của trầm tích lắng đọng. Phổ biến hơn là có đốm rõ rệt, có thể nhìn thấy trên bề mặt các mẫu vật lấy thủ công. Các đốm này thuôn tròn hoặc hình elip, và có thể nhạt màu hoặc sẫm màu hơn phần còn lại của đá.[10] Trong một số trường hợp, chúng rất giàu graphit hoặc vật chất có cacbon;[12] ở những chỗ khác chúng chứa đầy mica màu nâu; một số đốm bao gồm các hạt thạch anh thô hơn chút ít so với những gì xuất hiện trong chất nền. Tần suất mà đặc điểm này tái xuất hiện ở các loại đá bảng ít biến đổi và đá sừng là đáng chú ý, đặc biệt là vì dường như chắc chắn rằng các đốm này không phải lúc nào cũng có cùng bản chất hoặc nguồn gốc. Đôi khi người ta cũng tìm thấy đá sừng tourmalin gần rìa của đá granit tourmalin; chúng có màu đen với các schorl hình kim nhỏ, dưới kính hiển vi có màu nâu sẫm và đa sắc. Vì tourmalin chứa bo nên chắc chắn đã có sự thẩm thấu hơi ở một mức độ nào đó từ đá granit vào trầm tích. Các loại đá của nhóm này thường được nhìn thấy ở khu vực khai thác thiếc Cornwall, đặc biệt là gần các mạch quặng.[10]

Cacbonat

Nhóm đá sừng lớn thứ hai là đá sừng calci–silicat sinh ra từ sự biến đổi nhiệt của đá vôi không tinh khiết. Các móng tinh khiết hơn tái kết tinh như cẩm thạch, nhưng ở những nơi ban đầu có sự trộn lẫn cát hay sét thì các silicat chứa vôi hình thành, như diopside, epidot, granat, sphen, vesuvianitscapolit; cùng với chúng thường xuất hiện phlogopit, các felspat khác nhau, pyrit, thạch anh và actinolit. Các đá này có hạt mịn, và mặc dù thường tạo thành dải, nhưng rất dai và cứng hơn nhiều so với đá vôi ban đầu. Chúng biến động rất mạnh về thành phần khoáng vật học, thường xen kẽ trong các vỉa mỏng với đá sừng biotit và quartzit chai cứng. Khi tràn ngập hơi boflo từ đá granit, chúng có thể chứa nhiều axinit, fluoritdatolit, nhưng các silicat nhôm không có trong các đá này.[10]

Mafic

Từ diabaz, bazan, andesit và các loại đá hỏa sinh khác, loại đá sừng thứ ba được sản sinh. Về cơ bản, chúng bao gồm felspat với hornblend (thường có màu nâu) và pyroxen nhạt màu. Sphen, biotit và các oxide sắt là những thành phần hợp thành phổ biến khác, nhưng những loại đá này có sự biến thiên mạnh về thành phần và cấu trúc. Nơi khối đá ban đầu bị phân hủy và chứa calcit thì zeolit, clorit và các khoáng vật thứ cấp khác hoặc là trong các mạch hoặc trong các hốc, thường có các khu vực tròn hoặc các vệt không đều chứa một điệp các khoáng vật mới, có thể giống với các loại đá sừng calci-silicat được mô tả trên đây. Các cấu trúc ban tinh, lưu chuyển, dạng bọng hoặc mảnh ban đầu của đá hỏa sinh có thể nhìn thấy rõ ràng trong các giai đoạn ít tiến triển của quá trình tạo thành đá sừng, nhưng trở nên ít rõ ràng hơn khi sự thay đổi tiếp diễn.[10]

Ở một số nơi, đá sừng hóa xuất hiện có cấu trúc đá phiến thông qua quá trình trượt, và chúng tạo thành các dạng chuyển tiếp thành đá phiếngneis chứa cùng các khoáng chất như đá sừng, nhưng có cấu trúc dạng đá phiến thay vì cấu trúc dạng đá sừng. Trong số này có thể kể đến các loại gneis cordierit và sillimanit, mica-đá phiến andalusit và kyanit, và những đá calcit-silicat dạng đá phiến được gọi là cipolin. Người ta thường thừa nhận rằng đây là những trầm tích đã trải qua quá trình biến đổi nhiệt, nhưng điều kiện chính xác để hình thành chúng không phải lúc nào cũng rõ ràng. Các đặc trưng cơ bản của quá trình tạo thành đá sừng là do tác động của nhiệt, áp suất và hơi thấm qua, tái tạo một khối đá mà không tạo ra sự nung chảy (ít nhất là trên quy mô lớn). Tuy nhiên, người ta cũng từng tranh luận rằng thường có sự thay đổi lớn về mặt hóa học do sự truyền vật chất từ đá granit vào các loại đá xung quanh nó. Sự hình thành felspat mới trong các loại đá sừng được chỉ ra như là bằng chứng cho điều này. Mặc dù sự felspat hóa này có thể đã xảy ra ở một vài nơi, nhưng nó dường như không có ở những nơi khác. Hầu hết các tác giả ở thời điểm hiện tại đều coi các thay đổi này về bản chất hoàn toàn chỉ là vật lý chứ không phải là hóa học.[10]

Các tướng biến chất đá sừng

T (°C)
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Các tướng đá biến chất trong không gian áp suất-nhiệt độ.
Các tướng đá sừng chiếm vùng áp suất thấp của không gian này.

Các tướng đá sừng chiếm phần không gian nhiệt độ-áp suất biến chất với áp suất thấp nhất và nhiệt độ từ thấp đến cao. Nó được chia nhỏ thành chế độ nhiệt độ thấp gồm đá sừng albit - epidot, chế độ nhiệt độ trung bình là đá sừng hornblend, chế độ nhiệt độ cao là đá sừng pyroxen, và chế độ nhiệt độ cực cao của sanidinit. Loại cuối cùng này đôi khi được coi là một tướng đá riêng biệt. Áp suất tối đa vào khoảng 2 kbar và nhiệt độ khoảng 300-500 °C đối với tướng đá sừng albit-epidot, 500-650 °C đối với tướng đá sừng hornblend, 650-800 °C đối với tướng đá sừng pyroxen và trên 800 °C đối với tướng sanidinit.[3][9]

Các khoáng vật thực tế có trong mỗi tướng đá phụ thuộc vào thành phần của đá nguyên thủy. Đối với đá nguyên thủy mafic, các tướng đá sừng albit-epidot có đặc trưng là albit và epidot hoặc zoisit với lượng nhỏ actinolitclorit. Nó nhường chỗ cho horblend, plagioclase, pyroxen và granat trong các tướng đá sừng horblend, tới lượt mình nó nhường chỗ cho orthopyroxen, augit, plagioclase và lượng granat dấu vết đặc trưng trong các tướng đá sừng pyroxen và tướng sanidinit. Hai loại sau cùng này không thể phân biệt được đối với thành phần này của đá nguyên thủy.[9]

Đối với đá nguyên thủy siêu mafic, các tướng albit-epidot có đặc trưng là serpentin, talc, tremolit và clorit, nhường chỗ cho forsterit, orthopyroxen, hornblend, clorit, lượng nhỏ spinel nhôm đặc trưng và magnetit trong các tướng đá sừng hornblend, tới lượt mình nó nhường chỗ cho forsterit, orthopyroxen, augit, plagioclase, và spinel nhôm trong các tướng đá sừng pyroxen. Các tướng sanidinit đối với thành phần này chỉ khác với các tướng đá sừng pyroxen ở sự biến mất của spinel nhôm.[9]

Đối với đá nguyên thủy pelit, trình tự là thạch anh, plagioclase, muscovit, clorit và cordierit trong các tướng albit-peridot; thạch anh, plagioclase, muscovit, biotit, cordierit và andalusit trong các tướng đá sừng horblend; thạch anh, plagioclase, orthoclase, andalusit, sillimanit, cordierit và orthopyroxen trong các tướng đá sừng pyroxen. Các tướng sanidinit có thạch anh, plagioclase, sillimanit, cordierit, orthopyroxen, sapphirin và spinel nhôm.[9][13]

Đối với đá nguyên thủy dạng đá vôi, trình tự là calcit, dolomit, thạch anh, tremolit, talc và forsterit cho các tướng đá sừng albite-peridot; calcit, dolomit, thạch anh, tremolit, diopside và forsterit cho các tướng đá sừng horblend; calcit, thạch anh, diposide, forsterit và wollastonit cho các tướng đá sừng pyroxen; calcit, thạch anh, diopside, forsterit, wollastonit, monticellitakermanit cho các tướng sanidinit.[9]

Thuộc tính âm học

Đá sừng có khả năng tạo tiếng vang khi gõ. Michael Tellinger đã mô tả các loại đá này ở Nam Phi còn được gọi là "đá rung ngân" do khả năng ngân như chuông của chúng.[14] Nhạc cụ đá Skiddaw là một ví dụ về nhạc cụ đá được làm từ đá sừng.[15]

Xem thêm

Tham khảo

  • Tư liệu liên quan tới Đá sừng tại Wikimedia Commons
  •  Bài viết này bao gồm văn bản từ một ấn phẩm hiện thời trong phạm vi công cộngFlett, John S. (1911). “Hornfels”. Trong Chisholm, Hugh (biên tập). Encyclopædia Britannica. 13 (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press. tr. 710–711.
  1. ^ a b c Yardley, Bruce W. D. (1989). An introduction to metamorphic petrology. Harlow, Essex, Anh: Longman Scientific & Technical. tr. 12, 26. ISBN 0582300967.
  2. ^ a b Blatt, Harvey; Tracy, Robert J. (1996). Petrology: igneous, sedimentary, and metamorphic (ấn bản thứ 2). New York: W. H. Freeman. tr. 367, 512. ISBN 0716724383.
  3. ^ a b Philpotts, Anthony R.; Ague, Jay J. (2009). Principles of igneous and metamorphic petrology (ấn bản thứ 2). Cambridge, Vương quốc Anh: Nhà in Đại học Cambridge. tr. 422, 428. ISBN 9780521880060.
  4. ^ Leonhard K. von, 1823. Charakteristik der Felsarten: für akademische Vorlesungen und zum Selbststudium, tr. 139, Engelmann, Heidelberg
  5. ^ “Holwick Scar & Low Force: Pamphlet” (PDF). Explorenorthpennines.org.uk. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2015.
  6. ^ Lawrence D. J. D., Vye C. L., Young B. et al., 2004. Durham Geodiversity Audit. Durham: Durham County Council, tr. 20
  7. ^ Nesse, William D. (2000). Introduction to mineralogy. New York: Nhà in Đại học Oxford. tr. 195. ISBN 9780195106916.
  8. ^ Harry, W. T. (tháng 12 năm 1952). “Basic hornfels at a gabbro contact near Carlingford, Eire”. Geological Magazine. 89 (6): 411–416. Bibcode:1952GeoM...89..411H. doi:10.1017/S0016756800068114.
  9. ^ a b c d e f Blatt and Tracy, p.378-380, 512
  10. ^ a b c d e f g h Flett, John S. (1911). “Hornfels”. Trong Chisholm, Hugh (biên tập). Encyclopædia Britannica. 13 (ấn bản thứ 11). Nhà in Đại học Cambridge. tr. 710–711.
  11. ^ Yardley 1989, tr. 161
  12. ^ Dickey, John S.; Obata, Masaaki (1974). “Graphitic hornfels dikes in the Ronda high-temperature peridotite massif”. American Mineralogist. 59 (11–12): 1183–1189. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2020.
  13. ^ Stewart, F. H. (tháng 9 năm 1942). “Chemical data on a silica-poor argillaceous hornfels and its constituent minerals”. Mineralogical Magazine and Journal of the Mineralogical Society. 26 (178): 260–266. Bibcode:1942MinM...26..260S. doi:10.1180/minmag.1942.026.178.04.
  14. ^ “2014 Ancient Hidden Technology of the Annunaki (Fallen Angels)”. see from 43 min. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2016.
  15. ^ “The Musical Stones of Skiddaw - Allerdale Borough Council”. Allerdale.gov.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2015.

Read other articles:

Велика Британія Ця стаття є частиною серії статей продержавний лад і устрійВеликої Британії Конституція Правова система Права людини Глава держави Королева (список) Єлизавета II Таємна рада Лорд-голова Таємної ради Кріс Грейлінг Виконавча влада Прем'єр-міністр (список) ...

 

American politician Darin MitchellMember of the Arizona House of Representativesfrom the 13th[1] districtIn officeJanuary 14, 2013 – January 14, 2019Succeeded byJoanne Osborne Personal detailsBornAlma, MichiganNationalityAmericanPolitical partyRepublicanAlma materArizona State UniversityWebsitedarin-mitchell.com Darin Mitchell (born in Alma, Michigan)[2] is an American politician and a former Republican member of the Arizona House of Representatives repr...

 

Schlacht bei Kircheib Teil von: Erster Koalitionskrieg Ausschnitt aus der Karte von 1796 aus dem Buch Grundsätze der Strategie von Erzherzog Carl von Österreich Datum 19. Juni 1796 Ort bei Kircheib, Buchholz und Uckerath im Westerwald Ausgang Österreichischer Sieg Konfliktparteien Frankreich 1804 Frankreich Habsburgermonarchie Österreich Befehlshaber Frankreich 1804 Jean-Baptiste Kléber Habsburgermonarchie Paul Kray von Krajowa Truppenstärke 24.000 14.000 Verluste 1.500 400 Sc...

كنفودة - جماعة قروية -   الموقع الجغرافي تقسيم إداري البلد  المغرب[1] جهة الجهة الشرقية المسؤولون الإقليم إقليم جرادة الجماعة القروية كنفودة خصائص جغرافية إحداثيات 34°29′01″N 2°02′44″W / 34.48361111°N 2.04555556°W / 34.48361111; -2.04555556  المساحة ؟؟؟ كم² كم² السكان التعداد ا

 

Pesaro e Urbino—  Tỉnh  —Tỉnh Pesaro e Urbino Hiệu kỳBản đồ với vị trí tỉnh Pesaro e Urbino ở ÝPesaro e UrbinoQuốc gia ÝVùngMarcheTỉnh lỵPesaro, Urbino Chính quyền • Tỉnh trưởngPalmiro UcchielliDiện tích • Tổng cộng2,892 km2 (1,117 mi2)Dân số  • Tổng cộng351,216 • Mật độ121/km2 (310/mi2)Múi giờUTC+1, UTC+2 Mã ...

 

This is a list of rivers in the U.S. state of Vermont, sorted by drainage basin, and ordered from lower to higher, with the towns at their mouths: Connecticut River The Connecticut River flows south towards Long Island Sound in Connecticut. Flowing into it are: Deerfield River, Greenfield, Massachusetts Green River, Greenfield, Massachusetts Glastenbury River, Somerset Fall River, Greenfield, Massachusetts Whetstone Brook, Brattleboro, Vermont West River, Brattleboro Rock River, Newfane Wards...

American film, television, and theatre actor Bob GuntonGunton in 1963BornRobert Patrick Gunton Jr. (1945-11-15) November 15, 1945 (age 78)Santa Monica, California, U.S.Alma materPaulist Seminary St Peter's CollegeUniversity of California, IrvineOccupationActorYears active1965–presentSpouses Annie McGreevey ​ ​(m. 1980; div. 2006)​ Carey Pitts ​ ​(m. 2006)​ Children1 Robert Patrick Gunton Jr. (b...

 

SnapchatCuplikanCuplikan menu Snapchat Discover di iOSPengembangEvan SpiegelReggie BrownBobby MurphyRilis perdanaSeptember 2011[1]Rilis stabil8.1.1Templat:Latest stable software release/Snapchat Sistem operasiiOS, AndroidPlatformiOS, AndroidUkuran16,2 MBTersedia dalamInggris, Arab, Bengali, Dansk, Belanda, Filipina, Suomi, Prancis, Jerman, Yunani, Gujarati, Hindi, Indonesia, Italia, Jepang, Kannada, Korea, Melayu, Malayalam, Marathi, Norwegia, Polandia, Portugis, Punjabi, Rumania...

 

This article is about the now-closed tramways of Tianjin. For the current network, see TEDA Modern Guided Rail Tram. Tianjin, a major port and industrial center in China. Tianjin once had a standard steel-wheeled tramway network. But the original tram service was completely stopped in 1973. In 2006, tram service returned to Tianjin in the form of the TEDA Modern Guided Rail Tram. History First tram of Tianjin Tianjin was the first city to have its own citywide tram system (operated by Municip...

Younger brother of Ravana in the Ramayana This article is about the brother of demon king Ravana. For the mountain in Nepal, see Kumbhakarna Mountain. Not to be confused with Kumbha of Mewar. KumbhakarnaKumbhakarna with his weaponsAffiliationRakshasaTextsRamayana and its versionsPersonal informationParentsVishrava (father)Kaikashi (mother)SiblingsRavana, Vibhishana (brothers)Shurpanakha (sister)ConsortVajrajvalaKarkatiChildrenKumbha and Nikumbha (from Vajrajvala) Bhimasura (from Karkati) This...

 

Robert Seaman GrangerRobert S. GrangerBorn(1816-05-24)May 24, 1816Zanesville, OhioDiedApril 25, 1894(1894-04-25) (aged 77)Washington, D.C.Place of burialWoodlawn Cemetery, Zanesville, OhioAllegianceUnited States of AmericaUnionService/branchUnited States ArmyUnion ArmyYears of service1838–1873Rank Brigadier GeneralCommands held11th Infantry Regiment21st Infantry RegimentBattles/warsAmerican Civil War Robert Seaman Granger (May 24, 1816 – April 25, 1894) was a career officer ...

 

FourFourTwoFourFourTwo edisi Maret 2010KategoriMajalah Sepak BolaFrekuensiBulananPenerbitPT Tunas Bola (di Inggris Future plc)Terbitan pertama2009 (di Inggris 1994)NegaraIndonesia (asli Inggris)BahasaBahasa IndonesiaSitus webhttp://www.fourfourtwo.com FourFourTwo adalah sebuah majalah sepak bola yang diterbitkan di Indonesia sejak tahun 2009. Majalah ini diterbitkan di Indonesia oleh PT Tunas Bola. Sejatinya majalah ini berasal dari Inggris. Di sana majalah ini pertama kali diterbitkan di Ing...

2017 single by Nicky Jam For the 1981 album, see Sunny & the Sunliners. El AmanteCover art for the remixSingle by Nicky Jamfrom the album Fénix LanguageSpanishEnglish titleThe LoverReleasedJanuary 16, 2017 (2017-01-16)Length4:36LabelSony LatinSongwriter(s) Nick Rivera Cristhian Mena Juan Vélez Producer(s)Saga WhiteBlackNicky Jam singles chronology With You Tonight (Hasta El Amanecer) (2016) El Amante (2017) Si Tú la Ves (2017) Music videoEl Amante on YouTube El Amante (E...

 

عزلة ثواب اعلى  - عزلة -  تقسيم إداري البلد  اليمن[1] المحافظة محافظة إب المديرية مديرية اب خصائص جغرافية إحداثيات 13°58′56″N 44°07′05″E / 13.98234°N 44.11806°E / 13.98234; 44.11806  الارتفاع 2239 متر  السكان التعداد السكاني 2004 السكان 10٬690   • الذكور 5٬046   • الإ...

 

Palace in Vienna, Austria Hotel Palais Coburg 19th century depiction Palais Coburg, also known as Palais Saxe-Coburg, is a palace in Vienna, Austria. It was owned by the Kohary branch of the House of Saxe-Coburg and Gotha. Palais Coburg was designed in 1839 by architect Karl Schleps in Neoclassical style, and built from 1840 to 1845 by Prince Ferdinand of Saxe-Coburg and Gotha atop the Braunbastei (Brown Bastion), a part of the Vienna city defences dating to 1555. It is nicknamed the Spargelb...

Đối với thị xã cùng tên, xem Kiến Tường. Kiến Tường là một tỉnh cũ thời Việt Nam Cộng hòa ở Miền tây Nam phần, Việt Nam. Bản đồ hành chính Việt Nam Cộng hòa năm 1967 Bản đồ hành chính tỉnh Kiến Tường năm 1973 Lịch sử Tỉnh Kiến Tường được thành lập vào cuối năm 1956 do đổi tên từ tỉnh Mộc Hóa trước đó và bị mất tên gọi đơn vị hành chính cấp tỉnh từ tháng 2 năm 1976 ...

 

1987 American horror film Street TrashTheatrical posterDirected byJ. Michael MuroWritten byRoy Frumkes[1]Produced byRoy Frumkes[1]Starring Mike Lackey R. L. Ryan Vic Noto CinematographyDavid SperlingEdited byDennis WernerMusic byRick UlfikProductioncompanies Street Trash Joint Venture Lightning Pictures Distributed byLightning PicturesRelease date September 16, 1987 (1987-09-16) Running time101 minutesCountryUnited StatesLanguageEnglish Street Trash is a 1987 Am...

 

This article is about the islands of Palau. For other uses, see Rock Island (disambiguation). This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Rock Islands – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (June 2020) (Learn how and when to remove this template message) Collection of reef islands in Palau Rock Is...

Historic church in New York, United States For the Little Church Around the Corner in Midtown, see Church of the Transfiguration, Episcopal (Manhattan). United States historic placeChurch of the TransfigurationU.S. National Register of Historic PlacesNew York City Landmark No. 0085 Church of the Transfiguration, formerly Zion Protestant Episcopal ChurchLocation25 Mott St.Manhattan, New York CityCoordinates40°42′52.3″N 73°59′56.5″W / 40.714528°N 73.999028°...

 

For the 1978 album by English folk duo John Otway and Wild Willy Barrett, see Deep & Meaningless. 2005 single by RoosterDeep and MeaninglessSingle by Roosterfrom the album Rooster Released11 July 2005 (2005-07-11)GenrePop rockLength3:35LabelBrightsideSongwriter(s) Nick Atkinson Luke Potashnick Espen Lind Amund Bjørklund Producer(s)Steve RobsonRooster singles chronology You're So Right for Me (2005) Deep and Meaningless (2005) Home (2006) Deep and Meaningless is a song by E...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!