William Hamilton, Công tước thứ 11 xứ Hamilton và Công tước thứ 8 xứ Brandon (19 tháng 2 năm 1811 – 8 tháng 7 năm 1863) được gọi là Bá tước xứ Angus trước năm 1819 và Hầu tước xứ Douglas và Clydesdale trong khoảng thời gian từ 1819 đến 1852, là một quý tộc người Scotland.
William Hamilton được giáo dục ở Eton College và Đại học Christ Church, Oxford. Năm 1846, William trở thành Hiệp sĩ Marischal của Scotland và trở thành Lord Lieutenant xứ Lanarkshire vào năm 1852.[7]
Mary Victoria Hamilton (11 tháng 12 năm 1850 – 14 tháng 5 năm 1922), kết hôn lần thứ nhất với Albert I xứ Monaco (bấy giờ là trữ quân Monaco), sau đó tái hôn với Thân vương người Hungary là Festetics Tasziló xứ Tolna.[11][12]
Sau khi kết hôn, William Hamilton chủ yếu sống ở Paris và Baden-Baden và rất ít quan tâm đến chính trị Anh.[1]
Công tước xứ Hamilton
Vớ tư cách là con trai duy nhất, William Hamilton là người thừa kế của Alexander Hamilton, Công tước thứ 10 xứ Hamilton. Khi ông nội của William, tức Archibald Hamilton trở thành Công tước xứ Hamilton năm 1799, cha của William là Alexander được gọi với tước hiệu nhã xưng là Hầu tước xứ Douglas và Clydesdale và khi William được gọi với tước hiệu nhã xưng là Bá tước xứ Agnus. Khi Alexander kế vị, William được gọi là Hầu tước xứ Douglas và Clydesdale và khi cha qua đời vào ngày 18 tháng 8 năm 1852, William kế vị và trở thành Công tước xứ Hamilton.[2] Cũng trong năm đó, William mua lại một tòa nhà phố ở số 22 đường Arlington thuộc Quảng trường Thánh James, một quận thuộc Thành phố Winchester ở trung tâm Luân Đôn từ Henry Somerset, Công tước thứ 7 xứ Beaufort với giá là 60.000 bảng Anh và chi rất nhiều tiền vào tòa nhà này. Khi William Hamilton qua đời, tòa nhà được Marie Amelie xứ Baden sử dụng trong một thời gian ngắn nhưng đã bán lại cho Ivor Guest, Nam tước Wimborne thứ 1 vào năm 1867.[13]
Qua đời
Ngày 12 tháng 11 năm 1863, khi thưởng thức một bữa tối sang trọng với Napoléon III tại nhà hàng Maison Dorée, boulevard des Italiens, Paris, ngài Công tước bị ngã gục tại nhà hàng. William Hamilton nhanh chóng được đưa về khách sạn của mình ở Quảng trường Vendôme.[1][14][15] Ngài 15 tháng 7, Công tước xứ Hamilton qua đời khi được 52 tuổi, Marie Amelie xứ Baden đã đến Paris để ở bên chồng trong những giờ phút cuối cùng.[1][15][a]
Tính cách
Giống như cha, William Hamilton có bản tính kiêu hãnh mãnh liệt. Henry Brougham, Nam tước Brougham và Vaux thứ 1, cựu Đại Chưởng ấn, đã mô tả ngài Công tước là "Very Duke of Very Duke".[1][15][7] Ngoài ra, Công tước cũng là người có lối sống xa hoa. William Hamilton không bao giờ đi du lịch ở Pháp với đoàn tùy tùng ít hơn 200 con ngựa, cỗ xe và người hầu. Ngài Công tước cũng thường lái xe xuống đại lộ Champs-Elysées trên một cỗ xe gồm có 12 con ngựa và sáu người cưỡi.[16]
Hiểu lầm về mối quan hệ với Hoàng hậu Eugenia của Pháp
Công tước xứ Hamilton có mối quan hệ thân thiết với Eugenia xứ Montijo, Hoàng hậu Pháp. Theo Lady Helena Gleichen, William Hamilton và Hoàng hậu Eugenia đã vô tình gây nên hiểu lầm về hai người trong triều đình Pháp khi trong một lần, do tự làm thương bản thân nên Công tước xứ Hamilton không thể đi săn cùng các cận thần người Pháp và Hoàng hậu Eugenia đã nói rằng: "Phải, ta đã thấy vết bầm trên chân của ngài công tước. Nó rất là tệ."[b] Triều đình Pháp đã rất sốc trước câu nói của Hoàng hậu và Eugenia phải nhờ William Hamilton mặc váy kilt trong bữa tối ngày hôm sau để mọi người đều thấy vết bầm, cho thấy rằng vì ngài Công tước mặc váy kilt nên phần chân lộ ra ngoài, do đó Hoàng hậu có thể nhìn thấy vết bầm của William Hamilton.[17]
Tước hiệu và nhã xưng
Ngày 19 tháng 2 năm 1811 – 16 tháng 2 năm 1819: Earl of Agnus (Bá tước xứ Agnus)
Ngày 16 tháng 2 năm 1819 – 18 tháng 8 năm 1852: Marquess of Douglas and Clydesdale (Hầu tước xứ Douglas và Clydesdale)
Ngày 18 tháng 8 năm 1852 – 15 tháng 7 năm 1863:His Grace The Duke of Hamilton (Đức ngài Công tước xứ Hamilton)
Tổ tiên
Gia phả của William Hamilton, Công tước thứ 11 xứ Hamilton[18]
^Chancellor, E. Beresford (Edwin Beresford) (1908). The private palaces of London past and present. University of California Libraries. London : K. Paul, Trench, Trübner & Co. Ltd. tr. 366–367.