Khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào ngày 25 tháng 6, 1950 do việc lực lượng Bắc Triều Tiên tấn công xuống lãnh thổ Nam Triều Tiên, Samuel N. Moore được khẩn cấp huy động và khởi hành từ Hong Kong vào ngày 27 tháng 6 để đi sang vùng chiến sự. Nó phục trong suốt mùa Hè và mùa Thu năm đó ngoài khơi bán đảo Triều Tiên cho đến khi quay trở về San Diego vào ngày 11 tháng 2, 1951. Nó lại lên đường đi sang Viễn Đông vào ngày 1 tháng 12, nơi nó hộ tống bảo vệ cho các tàu sân bay và tham gia bắn phá bờ biển từ tháng 2 đến tháng 5, 1952, rồi quay trờ về San Diego vào ngày 26 tháng 6.
Khởi hành từ Long Beach, California vào ngày 2 tháng 2, 1953, Samuel N. Moore quay trở lại vùng chiến sự tại Triều Tiên, tiếp tục bảo vệ cho các tàu sân bay, viếng thăm đảo Koje gần Pusan vào tháng 3, trợ giúp vào việc phòng thủ đảo Yang-do và tuần tra gần Chongjin trong tháng 4, rồi sang tháng 5 đã đối đầu với những khẩu đội pháo bờ biển đối phương tại cảng Wonsan. Đến tháng 6, chiếc tàu khu trục được huy động để tuần tra tại eo biển Đài Loan, rồi quay trở lại Triều Tiên vào tháng 7 để hoạt động bắn phá bờ biển. Sau khi đạt được thỏa thuận đình chiến, con tàu quay trở về Long Beach vào ngày 30 tháng 8.
Samuel N. Moore lên đường từ Long Beach vào ngày 4 tháng 5, 1954 để đi sang khu vực Tây Thái Bình Dương, nơi nó hoạt động cùng một lực lượng chống tàu ngầm, tuần tra tại eo biển Đài Loan, viếng thăm quần đảo Đại Trần ngoài khơi bờ biển Chiết Giang, Trung Quốc vào ngày 19 tháng 8, trước khi quay trở về Long Beach vào ngày 5 tháng 12. Từ năm 1955 đến năm 1959, nó thực hiện những lượt bố trí hàng năm sang khu vực Tây Thái Bình Dương, viếng thăm Philippines, Đài Loan và Nhật Bản. Trong năm 1960 và 1961, nó phục vụ cùng một lực lượng chuyên trách chống tàu ngầm tại Tây Thái Bình Dương, và sau đó là những hoạt động tương tự dọc bờ Tây Hoa Kỳ trong những năm 1962-1963.
Samuel N. Moore lại rời vùng bờ Tây vào ngày 28 tháng 9, 1965 cho một lượt hoạt động khác cùng Đệ Thất hạm đội tại Viễn Đông, nơi nó hỗ trợ hải pháo cho những hoạt động tác chiến trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, canh phòng máy bay cho tàu sân bay trong biển Đông, và bắn phá những mục tiêu trên bờ tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trước khi quay trở về Long Beach vào ngày 8 tháng 4, 1966. Trong lượt hoạt động tiếp theo tại Việt Nam bắt đầu từ ngày 28 tháng 3, 1967, nó tuần tra ngoài khơi Bắc Việt Nam trong khuôn khổ Chiến dịch Sea Dragon nhằm ngăn chặn việc vận chuyển vũ khí bằng đường biển, cũng như bảo vệ cho các tàu sân bay trong vịnh Bắc Bộ, trước khi trở về Long Beach vào ngày 20 tháng 9. Nó lại lên đường vào ngày 18 tháng 7, 1968 cho lượt phục vụ cuối cùng trong cuộc chiến này, thực hiện nhiều đợt bắn phá bờ biển và hộ tống các tàu sân bay; nó quay trở về Long Beach vào ngày 26 tháng 2, 1969.
Con tàu được bán vào ngày 10 tháng 12 năm 1969 cho Trung Hoa dân quốc (Đài Loan).[a] Nó phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc Heng Yang (DD-2).[1] Đến năm 1986, giờ đây mang ký hiệu lườn, D976, Heng Yang trải qua chương trình cải biến Tien Shi, khi tháp pháo 5-inch và khẩu phòng không 3-inch phía đuôi tàu được tháo dỡ, lấy chỗ trang bị sáu ống phóng tên lửa chống hạm Hsiung Feng I trên hai bệ ba nòng, cùng hai khẩu phòng không 40-mm nòng đôi.[3][4][5] Sau này con tàu còn được tăng cường bốn ống phóng tên lửa đất-đối-không Sea Chaparral, và ký hiệu lườn thay đổi thành DDG-902.[5] Nó ngừng hoạt động vào tháng 5 năm 1995, và có thể đã bị tháo dỡ.[6]
Phần thưởng
Samuel N. Moore được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, ba Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Triều Tiên, và thêm bảy Ngôi sao Chiến trận nữa trong Chiến tranh Việt Nam.[1]
^DANFS cho rằng nó được bán vào ngày 10 tháng 12 năm 1969;[1] trong khi nguồn Jane's Fighting Ships 1971–72 cho rằng nó được bán ngày 9 tháng 12 năm 1969, và lễ chuyển giao chính thức diễn ra vào ngày 11 tháng 12 năm 1969.[2]
Baker, A.D. biên tập (1998). The Naval Institute Guide to Combined Fleets of the World 1998–1999. Annapolis, Maryland, USA: Naval Institute Press. ISBN1-55750-111-4.
Blackman, Raymond V.B. biên tập (1971). Jane's Fighting Ships 1971–72. London: Sampson Low, Marston & Co., Ltd. ISBN0-354-00096-9.
Couhat, Jean Laybayle; Baker, A.D. biên tập (1986). The Naval Institute Guide to Combined Fleets of the World 1986/87. Annapolis, Maryland, USA: Naval Institute Press. ISBN0-85368-860-5.