2 × đường ray thả mìn sâu, mang theo cho đến 200 quả
USS Daniel T. Griffin (DE-54/APD-38) là một tàu hộ tống khu trụclớp Buckley được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Hạ sĩ quan kỹ thuật không quân Daniel Thornburg Griffin (191-1941), người từng phục vụ tại Căn cứ Không lực Hải quân vịnh Kaneohe, Oahu, và đã tử trận trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, 1941.[1][2] Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến năm 1944, khi được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc mang ký hiệu lườn APD-38, và tiếp tục phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc; nó xuất biên chế năm 1946. Con tàu được chuyển cho Chile năm 1965 và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Chile cho đến khi ngừng hoạt động và bị tháo dỡ vào năm 1995. Daniel T. Griffin được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Những chiếc thuộc lớp tàu hộ tống khu trục Buckley có chiều dài chung 306 ft (93 m), mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.400 tấn Anh (1.400 t); và lên đến 1.740 tấn Anh (1.770 t) khi đầy tải.[3] Hệ thống động lực bao gồm hai turbine hơi nướcGeneral Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [4][5] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h), và có dự trữ hành trình 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[6]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Khác biệt đáng kể so với lớp Evarts dẫn trước là chúng có thêm ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[6]
Vào ngày 6 tháng 4, Daniel T. Griffin đánh trả nhiều đợt không kích tự sát của máy bay Kamikaze đối phương, bắn hạ ít nhất hai chiếc. Khi chiếc tàu khu trụcMorris (DD-417) bị Kamikaze đâm trúng, nó đã trợ giúp bảo vệ khỏi các đợt tấn công tiếp theo, giúp dập tắt các đám cháy và hộ tống con tàu bạn rút lui về Kerama Retto. Sau đó nó phục vụ hộ tống vận tải tại chỗ tại khu vực Saipan từ ngày 20 tháng 5 đến ngày 19 tháng 6, rồi hộ tống một đoàn tàu đi Okinawa cùng một đoàn tàu khác từ Okinawa đi Ulithi. Nó đi đến vịnh San Pedro vào ngày 11 tháng 7 để đảm trách nhiều vai trò khác nhau tại vùng biển Philippines.[1]