Thiết kế của lớp Crosley dựa trên việc cải biến lớp tàu hộ tống khu trụcRudderow. Cấu trúc thượng tầng con tàu được mở rộng, đồng thời tháo dỡ bớt vũ khí trang bị để lấy chỗ bố trí nơi nghỉ cho 162 binh lính được vận chuyển cùng khoảng 40 tấn trang bị. Hệ thống động lực tương tự như với các lớp Buckley và Rudderow; là kiểu động cơ turbine-điện General Electric, cung cấp điện năng cho mô-tơ điện để dẫn động hai trục chân vịt.[2][3]
Dàn vũ khí được giữ lại bao gồm một khẩu pháo 5 inch (130 mm)/38 cal bố trí một phía trước mũi; ba khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và sáu pháo phòng không Oerlikon 20 mm; vũ khí chống ngầm gồm hai đường ray Mk. 9 để thả mìn sâu.[4][5] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 168 thủy thủ; và con tàu được bố trí tiện nghi để vận chuyển 12 sĩ quan cùng 150 binh lính đổ bộ.[4]
Khởi hành vào ngày 31 tháng 5 để hướng sang Philippines, Brock đi đến vịnh San Pedro, Leyte vào ngày 3 tháng 6. Nó ở lại đây trong bốn ngày trước khi gia nhập cùng Kane vào ngày 7 tháng 6 để hộ tống một đoàn tàu vận tải hướng sang quần đảo Ryūkyū. Sau khi đi đến Kerama Retto vào ngày 12 tháng 6, con tàu làm nhiệm vụ tại một trạm canh phòng về phía Đông Nam bờ biển Okinawa, vào giai đoạn Chiến dịch Okinawa sắp kết thúc. Nó hoạt động tại khu vực này cho đến ngày 19 tháng 6, khi nó chuyển đến một trạm canh phòng tại vùng biển giữa Ie Shima và Okinawa. Vào chiều tối ngày 23 tháng 6, con tàu được phái đi đến một vị trí cách 20 nmi (37 km) để làm nhiệm vụ tìm kiếm-giải cứu. Máy bay của Trung úy phi công Thủy quân Lục chiến Gustave T. Broberg bị buộc phải hạ cánh trên biển khi quay trở về sau một phi vụ tại Đài Loan, và anh được vớt lên sau hai giờ trên mặt biển.[1]
Đang khi tuần tra chống tàu ngầm tại trạm E-23, khoảng 2 nmi (3,7 km) về phía Đông Bắc Ie Shima vào ngày 26 tháng 6, radar của Brock dò được một mục tiêu trên không lúc 01 giờ 13 phút ở khoảng cách 15 nmi (28 km) và đang tiến đến gần. Con tàu giảm tốc độ còn 5 kn (9,3 km/h) và đổi hướng để tránh bộc lộ hình dạng dưới ánh trăng. Khi chiếc máy bay Kamikaze còn cách con tàu khoảng 1.000 yd (910 m), viên phi công bất chợt phát hiện chiếc tàu vận chuyển cao tốc và ngoặc gấp để bổ nhào tấn công. Các khẩu pháo phòng không 40-mm và 20-mm của con tàu đồng loạt khai hỏa vào đối thủ, được nhận diện là một máy bay tiêm kích một động cơ Mitsubishi J2M. Đối phương bay song song cùng con tàu trước khi quay lại từ hướng mũi tàu, nhưng bị bắn trúng, mất kiểm soát và rơi cách con tàu khoảng 1.500 yd (1.400 m).[1]
Đi đến vịnh Tokyo vào ngày 13 tháng 9, Brock ở lại vùng biển Nhật Bản cho đến ngày 23 tháng 9, khi nó lên đường hộ tống một đoàn tàu vận tải quay trở về Leyte. Trên đường đi nó phát hiện và phá hủy một quả thủy lôi trôi nổi ngay trước mũi đoàn tàu. Về đến vịnh San Pedro, Leyte vào ngày 4 tháng 10, nó đi vào một ụ nổi sáu ngày sau đó để sửa chữa. Sau khi hoàn tất nó khởi hành vào ngày 16 tháng 10, vận chuyển hành khách đi sang vịnh Tokyo, đến nơi vào ngày 27 tháng 10. Con tàu làm nhiệm vụ tại vùng biển nội địa Seto cho đến khi rời Honshu vào ngày 7 tháng 11 và đi đến Hiro Wan hai ngày sau đó. Nó thay phiên cho tàu khu trụcRowan (DD-782) làm nhiệm vụ tàu kiểm soát cảng ở lối ra vào eo biển Bungo từ ngày 11 tháng 11, và phục vụ trong vai trò này cũng như tuần tra trong biển nội địa Seto cho đến ngày 15 tháng 12.[1]
^Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2022.