Thiết kế của tàu ngầm Type IXB là phiên bản nâng cấp nhỏ từ Type IXA, tăng thêm trữ lượng nhiên liệu để kéo dài tầm xa hoạt động.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 1.051 t (1.034 tấn Anh) khi nổi và 1.178 t (1.159 tấn Anh) khi lặn.[7] Con tàu có chiều dài chung 76,50 m (251 ft 0 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 58,75 m (192 ft 9 in), mạn tàu rộng 6,51 m (21 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,70 m (15 ft 5 in).[7]
Chúng trang bị hai động cơ dieselMAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất 4.400 PS (3.200 kW; 4.300 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,92 m (6,3 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 18,2 kn (33,7 km/h), và tầm hoạt động tối đa 12.000 nmi (22.000 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[7] Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điệnSiemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất 1.000 PS (740 kW; 990 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,3 kn (13,5 km/h), và tầm hoạt động 64 nmi (119 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h).[7] Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[7]
Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi 53,3 cm (21 in). Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo 10,5 cm (4,1 in) SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không 3,7 cm (1,5 in) SK C/30 và hai pháo phòng không 2 cm (0,79 in) C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.[7]
U-105 xuất phát từ Kiel vào ngày 24 tháng 12, 1940 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa quần đảo Faroe và Iceland để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Ireland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[8] Vào ngày 9 tháng 1, 1941, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Bassano 4.844 GRT ở vị trí về phía Tây Bắc Rockall.[9][10] Vào ngày 26 tháng 1, nó phóng ngư lôi kết liễu chiếc tàu buôn Anh Lurigethan 3.564 GRT, vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu SL 61 và đã bị hư hại trước đó do không kích.[11]U-105 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Lorient bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 31 tháng 1.[5] Lorient trở thành căn cứ hoạt động của U-105 trong suốt thời gian còn lại của quãng đời hoạt động.[5]
1943
Chuyến tuần tra thứ chín - Bị mất
U-105 xuất phát từ cảng Lorient vào ngày 16 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong Đại Tây Dương ngoài khơi bờ biển Tây Phi.[12] Trên đường đi vào ngày 1 tháng 4, hạm trưởng của U-105, Trung úy Jürgen Nissen, được thăng lên hàm Đại úy Hải quân.[13] Đến ngày 15 tháng 5U-105 đánh chìm tàu buôn Hy Lạp Maroussio Logothetis 4.669 GRT ở vị trí 250 nmi (460 km) về phía Tây Nam Freetown.[14][15]
Blair, Clay (1998). Hitler's U-boat War: The Hunted, 1942-1945. Random House. ISBN978-0-679-45742-8.
Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN1-55750-186-6.
Carey, Alan (2004). Galloping Ghosts of the Brazilian Coast: United States Naval Air Operations in the South Atlantic During World War II. iUniverse. ISBN978-0-595-31527-7.
Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN978-1848322103.
Rohwer, Jürgen (1999). Axis submarine successes of World War Two: German, Italian, and Japanese submarine successes, 1939-1945. Naval Institute Press. ISBN1-85367-340-4.
Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN1-85780-072-9.