Sự tham gia của ông vào Phong trào Ngũ Tứ và khuynh hướng dân tộc đã dẫn đến việc ông bị trục xuất khỏi trường học Vạn Huyền Sảnh vào năm 1916. Năm 1926, ông theo học tại Học viện Quân sự Hoàng Phố tại Vũ Hán. Vào tháng 5 năm 1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Hàm Ninh, trong cuộc khởi nghĩa vụ thu hoạch mùa thu.
Tháng 10 năm 1934, ông tham gia vào Vạn lý Trường chinh và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Hồng quân 9. Ngày 21 tháng 7 năm 1935, ông bị giáng chức làm ủy viên trưởng của Đại học Hồng quân khi ông bác bỏ lệnh của Trương Quốc Đảo chống lại tuyến đường Mao Trạch Đông diễu hành.[1]
Chiến tranh Trung-Nhật (1936-1945)
Ông phục vụ như là một trong những chỉ huy sư đoàn của Bát lộ quân trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật. Là người đứng đầu Đại học Quân sự và Chính trị Kháng Nhật vào năm 1938, ông phản đối cuộc hôn nhân của Mao Trạch Đông với Giang Thanh.[2] Trong thời gian trở về Diên An vào năm 1940, ông đã viết một cuốn sách về "Lịch sử tóm tắt của Bát lộ quân".[3] Vào tháng 11 năm 1941, ông được bổ nhiệm làm phó giáo sư của Học viện Quân sự. Vào tháng 2 năm 1942, ông học tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vào tháng 5, ông là phó tư lệnh của Bộ Tư lệnh Bảo an khu vực biên giới Thiểm Tây-Cam Túc-Ninh Hạ. Vào tháng 1 năm 1943, ông giữ chức phó lữ trưởng Lữ đoàn 385 ở biên giới Thiểm Tây-Cam Túc-Ninh Hạ. Vào tháng 8 năm 1945, ông giữ chức phó tham mưu trưởng các lực lượng phòng thủ ở biên giới Thiểm Tây-Cam Túc-Ninh Hạ.
Nội chiến Trung Quốc (1945-1949)
Vào tháng 5 năm 1948, ông là phó chỉ huy của Quân đoàn thứ nhất của Tập đoàn quân Vùng Đông Bắc, tham gia vào chiến dịch Liêu Thẩm, cuộc bao vây Trường Xuân và chiến dịch Bình Tân. Vào tháng 1 năm 1949, ông là phó chỉ huy của đồn trú Thiên Tân.[4]