Node.js được tạo bởi Ryan Dahl từ năm 2009, và phát triển dưới sự bảo trợ của Joyent.[3][4]
Mục tiêu ban đầu của Dahl là làm cho trang web có khả năng push như trong một số ứng dụng web như Gmail. Sau khi thử với vài ngôn ngữ Dahl chọn Javascript vì một API Nhập/Xuất không đầy đủ. Điều này cho phép anh có thể định nghĩa một quy ước Nhập/Xuất điểu khiển theo sự kiện, non-blocking.[5]
Vài môi trường tương tự được viết trong các ngôn ngữ khác bao gồm Twisted cho Python, Perl Object Environment cho Perl, libevent cho C và EventMachine cho Ruby. Khác với hầu hết các chương trình Javascript, Nodejs không chạy trên một trình duyệt mà chạy trên Server. Node.js sử dụng nhiều chi tiết kỹ thuật của CommonJS.[6] Nó cung cấp một môi trường REPL cho kiểm thử tương tác.
Node.js được InfoWorld bình chọn là "Công nghệ của năm" vào năm 2012.[7]
varhttp=require('http');http.createServer(function(request,response){response.writeHead(200,{'Content-Type':'text/plain'});response.end('Hello World\n');}).listen(80);console.log('Server running at http://localhost:80/');
Đoạn mã sau là một máy chủ TCP hoạt động trên cổng 7000 và in ra chuỗi 'hello' trên mỗi kết nối:
Cộng đồng phát triển Node.js chủ yếu tập trung ở hai nhóm google: nodejs và nodejs-dev, một kênh IRC là #node.js trên mạng freenode. Có một hội thảo về Node.js là NodeConf được tổ chức thường niên.[8]
^Hughes-Croucher, Tom; Wilson, Mike (2012). Up and Running with Node.js. Up and Running (ấn bản 1). Sebastopol: O'Reilly. tr. vii. ISBN978-1-4493-9858-3. I was concerned about the ability to program advanced push features into the website like I had seen in Gmail See the book's Foreword at OReilly.com