Sau Pháp, Nhà thờ Đức Bà Paris đã tìm đến một số quốc gia khác như Bỉ, Thụy Sĩ và Canada (Québec). Vở nhạc kịch được diễn lại nhiều lần ở Montréal. Có bản chuyển ngữ sang tiếng Ý (diễn ở Roma và Verona), tiếng Tây Ban Nha (diễn ở Madrid và Barcelona) và tiếng Nga (diễn ở Moskva). Năm 2000, một phiên bản ngắn hát bằng tiếng Anh được diễn ở Las Vegas, Hoa Kỳ. Vở kịch đầy đủ bằng tiếng Anh cũng ra mắt tại Luân Đôn, Anh. Năm 2005, chuyến lưu diễn quốc tế bằng tiếng Pháp đã đến Bắc Kinh, Thượng Hải (Trung Quốc), Seoul (Hàn Quốc), Đài Loan và trở về Paris vào tháng 12 cùng năm.[1]. Năm 2009, các nghệ sĩ ban đầu cùng nhau tham gia chuyến lưu diễn kỷ niệm, đến Nga và Ukraina vào tháng 12 năm 2010.
Tính đến năm 2013, nhạc kịch Nhà thờ Đức Bà Paris đã được diễn hơn 5.000 lần ở khoảng hai mươi quốc gia khác nhau.[2] Nó được xem là vở nhạc kịch phổ biến nhất châu Âu trong vòng năm năm từ 1998 đến 2002. Nhạc kịch cũng được Sách kỷ lục Guinness chứng nhận là nhạc kịch bán vé chạy nhất trong năm đầu tiên công diễn.[3][4]
Tóm tắt
Lưu ý: các chi tiết trong nhạc kịch không hoàn toàn giống với tiểu thuyết.
Màn I
Nhạc kịch lấy bối cảnh đô thành Paris năm 1482. Tại đây nhà thơ nghèo Pierre Gringoire kể lại câu chuyện mà anh chứng kiến.
Đoàn người Di-gan (Bohémienne) vô gia cư (dẫn đầu là Clopin) lũ lượt kéo đến cổng Nhà thờ Đức Bà tìm nơi trú ngụ, gây khó chịu cho Phó Giám mục Nhà thờ là Frollo. Ông yêu cầu Phœbus - trưởng đội cung thủ của hoàng gia - trục xuất những người này. Tuy nhiên, điều chẳng ngờ tới là Phœbus lại mắc vào ái tình với cô gái trẻ xinh đẹp tên là Esméralda trong đoàn Di-gan, dù anh này đã có tình nhân. Cô gái ngây thơ cũng yêu thầm Phœbus.
Frollo yêu cầu Quasimodo (người kéo chuông nhà thờ có hình hài xấu xí) bắt cóc Esméralda. Vốn một lòng trung thành với Frollo, Quasimodo tuân mệnh nhưng không may thất bại và bị Phœbus bắt. Phœbus nhân dịp này hẹn gặp Esméralda tại Cabaret du Val d'Amour. Một lần Gringoire vô tình đi vào khu vực của dân vô gia cư và bị Clopin bắt được. Clopin cảnh báo nếu không có người phụ nữ nào đồng ý cưới Gringoire thì anh sẽ bị treo cổ. May mắn cho anh, Esméralda đã nhận lời (trên danh nghĩa).
Quasimodo chịu đựng bị trói tay trói chân. Anh kêu gào đòi uống nước nhưng không ai đoái hoài, chỉ trừ Esméralda bất ngờ đưa nước đến. Quasimodo được thả, và đến đây trên sân khấu xuất hiện cả Frollo và Phœbus; cả ba cùng hát về tình yêu của mình đối với Esméralda.
Tối hôm đó, Phœbus tới gặp Esméralda ở Cabaret du Val d’Amour, đằng sau có một bóng đen (Frollo) bí mật bám theo. Khi đang tình tự với Esméralda thì Phœbus bị bóng đen dùng dao đâm ngã gục.
Màn II
Mở đầu màn II là cảnh Frollo và Gringoire cùng nhau bàn luận một số vấn đề. Gringoire cho Quasimodo biết Esméralda đang bị giam ở nhà tù La Sainte và sẽ bị treo cổ vì tội hãm hại Phœbus. Clopin và một số người khác cũng bị bắt giam vào đây. Frollo dùng cách tra tấn để ép Esméralda nhận tội và phán cô tội treo cổ. Sáng sớm ngày hành hình, Frollo đến thú nhận với Esméralda rằng chính ông đã đâm Phœbus, đồng thời cho cô lựa chọn: hoặc yêu ông hoặc chết. Esméralda tỏ ra ghê tởm và chối phắt đi. Lúc đó, Clopin - được Quasimodo giải cứu - lao tới đánh Frollo bất tỉnh, cứu được Esméralda. Quasimodo đưa Esméralda về trú trong nhà thờ Đức Bà - nơi Clopin và những người khác tạm chiếm. Bên ngoài, Frollo và Phœbus kéo quân tới đàn áp thành công những người chiếm đóng. Clopin trước khi chết đã nhờ Esméralda lãnh trách nhiệm làm người các anh em khác. Cô rốt cuộc cũng thất bại và bị Phœbus ra lệnh treo cổ. Sau khi nghe Frollo tuyên bố chính mình là chủ mưu gây ra cái chết của Esméralda, Quasimodo giận dữ hất Frollo từ nơi cao khiến ông ta tử vong. Trong cảnh cuối, Quasimodo đòi nhận thi thể của Esméralda và gục khóc trên xác cô.
Năm 1993, sau thành công mang tính hiện tượng của Starmania (công diễn năm 1978) và thất bại của La Légende de Jimmy (công diễn năm 1990), Luc Plamondon quyết định lấy cảm hứng từ lịch sử để viết vở nhạc kịch tiếp theo của ông. Ông đắm mình trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris của văn hào Victor Hugo, kết quả là ông ghi lại được ba mươi ý tưởng ca khúc sau khi đọc qua sáu trăm trang sách. Plamondo chia sẻ: "Tôi muốn đưa lịch sử vĩ đại mà cả thế giới đều biết vào các ca khúc của mình. Ai mà biết được, điều này có thể mở ra cho tôi...phần còn lại của thế giới." Ông chợt nhớ ra rằng không lâu trước đây, cộng sự cũ của ông là Richard Cocciante có viết một bản nhạc để dành cho một "Dự án lớn", hiện đang giữ trong ngăn kéo. Ông thổ lộ rằng ban đầu từng cảm thấy rất sợ khi chọn đề tài liên quan đến một tượng đài của nền văn học Pháp như vậy. Tuy nhiên, chính vẻ đẹp trong ca từ của ca khúc "Belle" ("Người đẹp") đã làm ông hài lòng và tin tưởng vào dự án của bạn mình, rằng chỉ năm năm sau thôi thì bài hát sẽ được công nhận là tác phẩm thành công. Về sau, Plamondon thừa nhận đã nảy ra ý tưởng về bài hát sau khi xem xong bộ phim Nhà thờ Đức Bà Paris (1956) của đạo diễn Jean Delannoy.
Luc Plamondon và Richard Cocciante dành ra ba năm (từ 1994 đến 1996) để soạn nhạc và lời cho nhạc kịch. Bộ đôi nhận ra rằng tác phẩm sẽ dài hơn ba giờ đồng hồ, tức là cần phải tìm cách cắt giảm thời lượng xuống. Vào lúc này xuất hiện sự can dự của giám đốc Gilles Maheu. Vốn là một người luôn đi tiên phong, Maheu bày tỏ bản thân ông cảm thấy vở nhạc kịch này rất lôi cuốn. Ngay tức khắc Plamondon đáp lời: "Dự án của tôi sẽ không làm ông thích thú gì đâu, bởi nó là một truyện kể rất cổ điển!". Maheu vặn lại: "Ông có biết rằng tác phẩm đầu tay của tôi là một vở ba lê về Esméralda và ba người mê đắm cô nàng không?"
Hoàn thành phần việc nặng nhất, Plamondon và Cocciante lại bắt tay vào tìm nhà sản xuất cho đứa con tinh thần của họ. Sau ba lần mời gọi bất thành, Plamondon và bạn lâu năm là Guy Darmet - Giám đốc Nhà hát ca múa Lyon - đến đặt vấn đề với Victor Bosch - chủ rạp Transbordeur ở Lyon. Bosch tỏ ra khá quan tâm và đã tổ chức một cuộc gặp mặt với Charles Talar. Bosch nói: "Nhạc kịch của Plamondon, tôi quan tâm đấy; nhạc của Cocciante, tuyệt vời; tiểu thuyết của Victor Hugo, tuyệt!" Thế là mặc dù chưa đọc hay nghe qua thứ gì trong nhạc kịch nhưng Talar phát biểu: "Nếu các ông đồng ý, tôi sẽ sản xuất vở này và album nhạc cùng với Victor." Trong buổi diễn thử sau đó, Cocciante thủ tất cả các vai bên cây đàn dương cầm, trong khi Plamondon thì dàn cảnh. Về phía Cung Hội nghị Paris, họ muốn vở Nhà thờ Đức Bà Paris diễn vào mùa thu năm 1998. Tháng 1 năm 1997, các bên liên quan cùng nhau ký kết hợp đồng.
Thử giọng
Gần bốn trăm ca sĩ đã đến thử giọng ở cả hai bờ Đại Tây Dương, cuối cùng rút lại chỉ chọn bảy người. Sáu trăm vũ công và người nhào lộn tham gia thử việc, cuối cùng rút lại còn mười sáu người. Trong suốt hơn hai năm, những con người đến từ mười hai quốc gia khác nhau này sẽ là thành viên của đoàn kịch, được đảm bảo có việc làm vào mỗi buổi tối. Đi kèm các ca sĩ-diễn viên và vũ công là bốn mươi kỹ thuật viên, người phụ trách phông cảnh, nhân viên làm tóc, nghệ sĩ trang điểm, người giữ trang phục và các trợ lý.
Đội ngũ thiết kế
Gilles Maheu tìm kiếm nhà thiết kế phần nhìn đến từ châu Âu, riêng phần ánh sáng thì ông giao cho Alain Lortie đến từ Montréal, Canada. Ông trao nhiệm vụ trang trí cho Christian Rätz, nhiệm vụ thiết kế trang phục cho Fred Sathal, nhiệm vụ chỉ đạo ba lê đương đại cho biên đạo múa Martino Müller.
Marketing
Charles Talar là người vạch ra chiến lược marketing bằng kinh nghiệm của ba mươi lăm năm trong nghề. Hàng tuần, ông có các cuộc họp với các nhà sáng tạo, đội ngũ sản xuất và nhân viên xúc tiến quảng bá tác phẩm. Một áp phích rộng 700 mét vuông được treo trước mặt tiền Cung Hội nghị Paris nhằm quảng cáo cho vở nhạc kịch trong vòng một năm trước khi công diễn.
Công diễn
Gilles Mahe tổ chức buổi diễn theo phong cách hòa nhạc với dàn ca sĩ chính ở giữa sân khấu còn các vũ công diễn nền phía sau sân khấu. Phần nhạc của dàn nhạc giao hưởng cũng như phần hợp xướng được thu âm sẵn từ trước; các ca sĩ-diễn viên đeo microphone sát miệng.
Album và đĩa đơn
Album nguyên bản được ghi âm và phối khí tại Artistic Palace à Paris. Album đầy đủ được thu âm trực tiếp trong buổi diễn tại Cung Hội nghị Paris.
Song hành cùng sự kiện công diễn nhạc kịch, ba ca khúc trong tác phẩm đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn, đó là các bài hát "Vivre", "Le Temps des cathédrales" và "Belle". "Belle" trở thành Ca khúc của năm ở Pháp và được đề cử ngôi vị Ca khúc của thế kỷ. Bản tiếng Anh của "Vivre" ("Live for the One I Love") được cả hai nữ ca sĩ là Tina Arena (đóng vai Esméralda khi diễn tại Anh) và Celine Dion phát hành ra thị trường, mặc dù Celine Dion không tham gia nhạc kịch này.
Danh sách album
1997: Album phòng thu gồm 16 ca khúc (một CD)
1998: Album thu trực tiếp gồm 53 ca khúc (hai CD)
Ảnh hưởng và đón nhận
Nhà thờ Đức Bà Paris đã đưa nhạc kịch trở lại thành mốt thời thượng ở Pháp; nhiều tác phẩm khác đã thi nhau ra đời sau tác phẩm này. Theo Luc Plamondon và Richard Cocciante, tính riêng tại các quốc gia nói tiếng Pháp (Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Canada) thì đã có bốn triệu người xem nhạc kịch này, còn tính chung toàn cầu thì có 7,5 triệu người. Hơn 10 triệu album và năm triệu đĩa đơn đã được bán ra với nhiều phiên bản và ngôn ngữ khác nhau.[7] Tuy nhiên khi diễn tại Anh, nhạc kịch nhận được đánh giá khen chê lẫn lộn, nhìn chung là khen ngợi phần nhạc nhưng chế giễu phần lời dịch ra tiếng Anh. Báo The Times đánh giá vai diễn Quasimodo của Garou là đầy "năng lượng sầu lụy", các vũ công diễn nhiệt tình song kết luận rằng nhạc kịch này chẳng phải là một bản Những người khốn khổ khác.[8][9]
Giải thưởng
Hai giải Victoires de la musique năm 1999, gồm giải Bài hát của năm (Chanson originale de l'année) cho ca khúc "Belle" và giải Buổi diễn hay nhất năm[7] (Spectacle musical, tournée ou concert de l'année) cho buổi diễn tại Casino de Paris
Giải Félix năm 2000 hạng mục Buổi diễn của năm (Spectacle de l'année - Interprète)[10]
Danh sách bài hát trong nhạc kịch
Nguyên bản tiếng Pháp
Màn I
1. Ouverture - Dàn nhạc giao hưởng
2. Le Temps des cathédrales - Gringoire
3. Les Sans-papiers - Clopin & hợp xướng
4. Intervention de Frollo - Frollo & Phœbus
5. Bohémienne - Esmeralda
6. Esmeralda tu sais - Clopin
7. Ces diamants-là - Fleur-de-Lys & Phœbus
8. La Fête des fous - Gringoire & hợp xướng
9. Le Pape des fous - Quasimodo
10. La Sorcière - Frollo & Quasimodo
11. L'Enfant trouvé - Quasimodo
12. Les Portes de Paris - Gringoire
13. Tentative d'enlèvement - Phœbus & Esmeralda
14. La Cour des miracles - Clopin, hợp xướng & Esmeralda
15. Le Mot Phœbus - Esmeralda & Gringoire
16. Beau comme le soleil - Esmeralda & Fleur-de-Lys
17. Déchiré - Phœbus
18. Anarkia - Frollo & Gringoire
19. À boire! - Hợp xướng, Frollo & Quasimodo
20. Belle - Quasimodo, Frollo & Phœbus
21. Ma maison, c'est ta maison - Quasimodo & Esmeralda
22. Ave Maria païen - Esmeralda
23. Je sens ma vie qui bascule - Frollo / Si tu pouvais voir en moi (2001) - Quasimodo
24. Tu vas me détruire - Frollo
25. L'Ombre - Phœbus & Frollo
26. Le Val d'amour - Gringoire, hợp xướng & Phœbus
27. La Volupté - Phœbus & Esmeralda
28. Fatalité - Gringoire, Frollo, Quasimodo, Clopin & Fleur-de-Lys
Màn II
29. Florence - Frollo & Gringoire
30. Les Cloches - Gringoire, Frollo, Quasimodo & hợp xướng
31. Où est-elle ? - Frollo, Gringoire & Clopin
32. Les oiseaux qu'on met en cage - Esmeralda & Quasimodo
33. Condamnés - Clopin & hợp xướng
34. Le Procès - Frollo & Esmeralda
35. La Torture - Frollo & Esmeralda
36. Phœbus - Esmeralda
37. Être prêtre et aimer une femme - Frollo
38. La Monture - Fleur-de-Lys
39. Je reviens vers toi - Phœbus
40. Visite de Frollo à Esmeralda - Frollo & Esmeralda
41. Un matin tu dansais - Frollo & Esmeralda
42. Libérés - Quasimodo, Clopin, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
43. Lune - Gringoire
44. Je te laisse un sifflet - Quasimodo & Esmeralda
45. Dieu que le monde est injuste - Quasimodo
46. Vivre - Esmeralda
47. L'Attaque de Notre-Dame - Clopin, Frollo, Phœbus, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
48. Déportés - Phœbus & hợp xướng
49. Mon maître, mon sauveur - Quasimodo & Frollo
50. Donnez-la moi - Quasimodo
51. Danse mon Esmeralda - Quasimodo
52. Danse mon Esmeralda (hợp ca) - Dàn nhạc giao hưởng
53. Le Temps des cathédrales (hợp ca) - Gringoire & Ensemble
Bản tiếng Anh
Nhiệm vụ chuyển ngữ lời nhạc sang tiếng Anh do Will Jennings - người viết lời ca khúc nổi tiếng "My Heart Will Go On" - đảm nhiệm.
Màn I
1. Ouverture - Dàn nhạc giao hưởng
2. The Age of the Cathedrals - Gringoire
3. The Refugees - Clopin & hợp xướng
4. Frollo's Intervention- Frollo & Phœbus
5. The Bohemian Song - Esmeralda
6. Esmeralda You Know - Clopin
7. So Look No More for Love - Fleur-de-Lys & Phœbus
8. The Feast of Fouls - Gringoire & hợp xướng
9. The King of Fouls - Quasimodo
10. The Sorceress - Frollo & Quasimodo
11. The Foundling - Quasimodo
12. The Doors of Paris - Gringoire
13. Kidnap Attempt - Phœbus & Esmeralda
14. The Court of the Miracles - Clopin, hợp xướng & Esmeralda
15. The Word Phœbus - Esmeralda & Gringoire
16. Shining Like the Sun - Esmeralda & Fleur-de-Lys
17. Torn Apart - Phœbus
18. Anarchy - Frollo & Gringoire
19. Water Please! - Hợp xướng, Frollo & Quasimodo
20. Belle (Is the Only Word) - Quasimodo, Frollo & Phœbus
21. Home in the Sky - Quasimodo & Esmeralda
22. Pagan Ave Maria- Esmeralda
23. If You Could See inside Me - Quasimodo
24. Your Love Will Kill Me - Frollo
25. The Shadow - Phœbus & Frollo
26. At Val d'Amour - Gringoire, hợp xướng & Phœbus
27. The Voluptary - Phœbus & Esmeralda
28. Destiny - Gringoire, Frollo, Quasimodo, Clopin & Fleur-de-Lys
Màn II
29. Talk to Me of Florence - Frollo & Gringoire
30. The Bells - Gringoire, Frollo, Quasimodo & hợp xướng
31. Where Is She ? - Frollo, Gringoire & Clopin
32. The Birds They Put in Cages - Esmeralda & Quasimodo
33. Cast Away - Clopin & hợp xướng
34. The Trial - Frollo & Esmeralda
35. Torturer - Frollo & Esmeralda
36. Phœbus If You Can Hear Me - Esmeralda
37. I'm a Priest - Frollo
38. My Heart If You Will Swear - Fleur-de-Lys
39. To Get Back to You - Phœbus
40. Frollo's Visit to Esmeralda - Frollo & Esmeralda
41. On Bright Morning You Danced - Frollo & Esmeralda
42. Free Today - Quasimodo, Clopin, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
43. Moon - Gringoire
44. This Small Whistle I Leave You - Quasimodo & Esmeralda
45. God You Made the World All Wrong - Quasimodo
46. Live - Esmeralda
47. Attack of Notre-Dame - Clopin, Frollo, Phœbus, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
48. By Royal Law - Phœbus & hợp xướng
49. Master and Saviour - Quasimodo & Frollo
50. Give Her to Mme - Quasimodo
51. Dance my Esmeralda - Quasimodo
52. Dance my Esmeralda (hợp ca) - Dàn nhạc giao hưởng
53. The Age of the Cathedrals (hợp ca) - Gringoire & Ensemble
^Đoàn nhạc kịch trở lại Montréal nhân dịp khánh thành rạp Broadway mới trong lòng Bell Center.
^Chuyến lưu diễn đến Bắc Kinh, Thượng Hải, Seoul, Đài Loan và Singapore.
^Sau chuyến lưu diễn quốc tế, dàn diễn viên quay về Paris tiếp tục diễn thêm 30 buổi nữa tại Paris, từ ngày 2 đến 31 tháng 12 năm 2005 cũng tại Cung Hội nghị Paris - nơi tác phẩm công diễn.
^“Notre Dame de Paris 2000”. London Theatre Guide Theatre Current Reviews (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập 29 tháng 12 năm 2013.
^“Gala de l'ADISQ - 2000” (bằng tiếng Pháp). Website ADISQ. 16 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập 29 tháng 12 năm 2013.