"Mãn Châu" ("Manchuria")—xuất hiện trong các ngôn ngữ châu Âu thông qua tiếng Hà Lan—là một từ phỏng dịch gốc Latin của tên địa danh Manshū(満州, "vùng của người Mãn Châu") trong tiếng Nhật, xuất hiện từ thế kỷ 19. Tên gọi Mãn Châu (Manju) đã được Hoàng Thái Cực tạo ra và đặt cho người Nữ Chân vào năm 1635 để làm tên gọi mới cho dân tộc; tuy nhiên, tên gọi "Mãn Châu" không bao giờ được bản thân người Mãn hay nhà Thanh sử dụng để chỉ quê hương của họ.[16][17][18] Theo học giả người Nhật Miyawaki-Okada Junko, nhà địa lý học người Nhật Bản Takahashi Kageyasu là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Manshū để gọi địa danh trong Nippon Henkai Ryakuzu vào năm 1809, và người phương Tây tiếp nhận tên gọi trên thông qua tác phẩm này.[19][20] Theo Mark C. Elliott, thuật ngữ Manshū lần đầu tiên xuất hiện như một địa danh trong tác phẩm Hokusa Bunryaku năm 1794 của Katsuragawa Hoshū, trong hai bản đồ, "Ashia zenzu" và "Chikyū hankyū sōzu", cũng được tạo bởi Katsuragawa.[21]Manshū sau đó được dùng là tên địa danh trong nhiều bản đồ của người Nhật hơn, như các bản của Kondi Jūzō, Takahashi Kageyasu, Baba Sadayoshi và Yamada Ren, và những bản đồ này đã được đưa đến châu Âu bởi một người Hà Lan, Philipp von Siebold.[22] Theo Nakami Tatsuo, Philip Franz von Siebold là người đã sử dụng thuật ngữ Manchuria cho người châu Âu sau khi mượn từ tiếng Nhật, người đầu tiên sử dụng nó theo nghĩa địa lý trong thế kỷ 18.[16] Theo Bill Sewell, chính những người châu Âu đã bắt đầu sử dụng tên Manchuria (Mãn Châu) để chỉ địa điểm này và đó là "không phải là một thuật ngữ địa lý xác thực".[23] Nhà sử học Gavan McCormack đồng ý với tuyên bố của Robert H. G. Lee rằng "Thuật ngữ Manchuria hoặc Man-chou (Mãn Châu) là một sáng tạo hiện đại được sử dụng chủ yếu bởi người phương Tây và người Nhật Bản", với McCormack viết rằng thuật ngữ Mãn Châu có bản chất đế quốc và không có "ý nghĩa chính xác", kể từ khi người Nhật cố tình thúc đẩy việc sử dụng "Mãn Châu" làm tên địa lý để thúc đẩy ly khai khỏi Trung Quốc vào thời điểm họ đang thiết lập quốc gia bù nhìn Mãn Châu Quốc.[24] Người Nhật có động cơ riêng của họ khi cố tình truyền bá cách sử dụng thuật ngữ Mãn Châu.[25] Nhà sử học Norman Smith đã viết rằng "Thuật ngữ 'Mãn Châu' là một thuật ngữ gây tranh cãi".[26] Giáo sư Mariko Asano Tamanoi nói rằng bà "nên sử dụng thuật ngữ trong dấu ngoặc kép" khi đề cập đến Mãn Châu.[27] Trong luận án năm 2012 về tộc Nữ Chân để lấy bằng Tiến sĩ Triết học về Lịch sử của Đại học Washington, Giáo sư Chad D. Garcia lưu ý rằng việc sử dụng thuật ngữ "Mãn Châu" không được ưa chuộng trong "thực hành học thuật hiện nay" và ông đã ngừng sử dụng thuật ngữ này, thay vào đó sử dụng cụm từ "vùng Đông Bắc" hoặc đề cập đến các đặc điểm địa lý cụ thể.[28]
Ở châu Âu thế kỷ 18, khu vực sau này được gọi là "Mãn Châu" thường được gọi là "Tartar [thuộc Trung Hoa]". Tuy nhiên, thuật ngữ Mãn Châu (Mantchourie trong tiếng Pháp) bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ này; các nhà truyền giáo Pháp đã sử dụng nó sớm nhất là năm 1800.[29] Các nhà địa lý học người Pháp là Conrad Malte-Brun và Edme Mentelle đã thúc đẩy việc sử dụng thuật ngữ Mãn Châu (Mantchourie trong tiếng Pháp), cùng với "Mông Cổ", "Kalmykia", v.v., bởi tính chính xác hơn thuật ngữ chính xác hơn thuật ngữ Tartar, trong công trình nghiên cứu địa lý thế giới của họ xuất bản năm 1804.[30]
Trong tiếng Trung Quốc ngày nay, một cư dân của vùng Đông Bắc được gọi là một "người Đông Bắc" (东北人; Dōngběirén). "Người Đông Bắc" là một thuật ngữ thể hiện toàn bộ khu vực, bao gồm lịch sử và các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, nó thường được giới hạn ở "Ba tỉnh miền đông" hoặc "Ba tỉnh Đông Bắc", tuy vậy loại trừ vùng Đông Bắc Nội Mông. Ở Trung Quốc, thuật ngữ Mãn Châu (phồn thể: 滿洲; giản thể: 满洲; bính âm: Mǎnzhōu) ngày nay hiếm khi được sử dụng, và thuật ngữ này thường liên quan một cách tiêu cực đến di sản của đế quốc Nhật Bản và nhà nước bù nhìn Mãn Châu Quốc.[31][32][33]
Mãn Châu cũng được gọi là Quan Đông (phồn thể: 關東; giản thể: 关东; bính âm: Guāndōng), nghĩa là "phía đông cửa ải", và tương tự là Quan Ngoại (關外; 关外; Guānwài; "phía ngoài cửa ải"), nhắc đến Sơn Hải quan ở Tần Hoàng Đảo, ngày nay thuộc Hà Bắc, ở tận cùng phía Đông dãy Vạn Lý Trường Thành. Cách sử dụng này được thấy trong thành ngữ Sấm Quan Đông (nghĩa là "Ào ạt đổ vào Quan Đông") đề cập đến sự di cư hàng loạt của người Hán đến Mãn Châu trong thế kỷ 19 và 20. Tên gọi Quan Đông sau đó được sử dụng hẹp hơn cho khu vực Quan Đông Châu thuộc Bán đảo Liêu Đông. Không nhầm lẫn với tên gọi tỉnh phía Nam Quảng Đông.
Trong triều đại nhà Thanh, khu vực này được gọi là "ba tỉnh miền đông" (phồn thể: 東三省; giản thể: 东三省; bính âm: Dōngsānshěng; Manchuᡩᡝᡵᡤᡳ ᡳᠯᠠᠨ ᡤᠣᠯᠣ, Dergi Ilan Golo)[17] kể từ năm 1683 khi Cát Lâm và Hắc Long Giang bị tách ra mặc dù mãi đến năm 1907, chúng mới được chuyển thành các tỉnh thực sự.[17][34] Những người đứng đầu của ba khu vực là Tổng đốc Hắc Long Giang (Sahaliyan Ula i Jiyanggiyūn), Tổng đốc Cát Lâm (Girin i Jiyanggiyūn), và Tổng đốc Thịnh Kinh (Mukden i Jiyanggiyūn). Khu vực Mãn Châu sau đó được chính quyền nhà Thanh chuyển đổi thành ba tỉnh vào năm 1907. Kể từ đó, cụm từ "Ba tỉnh Đông Bắc" đã được chính quyền nhà Thanh ở Trung Quốc sử dụng để chỉ khu vực này, và chức vị Tổng đốc Ba tỉnh Đông Bắc (dergi ilan goloi uheri kadalara amban) được thành lập để phụ trách các tỉnh này. Sau cuộc cách mạng năm 1911, dẫn đến sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh do người Mãn thành lập, tên của khu vực nơi người Mãn bắt nguồn được gọi là "vùng Đông Bắc" trong các tài liệu chính thức của nhà nước Trung Hoa Dân Quốc mới thành lập, bên cạnh " Ba tỉnh Đông Bắc ".
Trong triều đại nhà Minh, khu vực nơi tộc Nữ Chân sinh sống được gọi là Nô Nhi.[35] Nô Nhi là khu vực của Cát Lâm hiện đại ở Mãn Châu.
Địa lí và khí hậu
Mãn Châu bao gồm chủ yếu phần phía Bắc của khu vực nền cổ Hoa Bắc, có dạng hình phễu, một khu vực rộng lớn với những tầng đất đá có niên đại Tiền Cambri được cày xới và bao phủ trải dài trên một diện tích 100 triệu hecta. Nền cổ Hoa Bắc là một lục địa độc lập vào trước kỷ Tam Điệp và được biết đến là lục địa ở phía cực bắc thế giới trong kỷ Than Đá. Dãy Đại Hưng An ở phía Tây và một dãy núi có niên đại từ kỷ Jura[36] được hình thành do sự va chạm của nền cổ Hoa Bắc với nền cổ Siberia, đánh dấu giai đoạn cuối cùng của sự hình thành của siêu lục địaPangaea.
Không có phần lục địa nào của Mãn Châu bị đóng băng trong kỷ Đệ Tứ, nhưng địa chất bề mặt của hầu hết các phần địa hình thấp hơn và màu mỡ hơn của Mãn Châu bao gồm các lớp hoàng thổ rất sâu, được hình thành do sự di chuyển của bụi và hạt đất sét (till) bởi gió cho đến khi các hạt hình thành ở các vùng băng giá của dãy Himalaya, Côn Lôn và Thiên Sơn, cũng như các sa mạc Gobi và Taklamakan.[37] Các loại đất chủ yếu là đất giàu chất hữu cơ (mollisol) và các loại đất màu mỡ khác (entisol), ngoại trừ ở những vùng núi cao hơn, nơi chúng là các địa hình orthent phát triển kém, cũng như ở phía cực bắc, nơi xảy ra băng vĩnh cửu và orthel chiếm ưu thế.[38]
Khí hậu của Mãn Châu có sự tương phản cực đoan theo mùa, từ khí hậu ẩm ướt, gần như nhiệt đới vào mùa hè đến khí hậu Bắc cực có gió và khô vào mùa đông. Mô hình này xảy ra bởi vì vị trí của Mãn Châu trên ranh giới giữa vùng đất liền lục địa Á-Âu và Thái Bình Dương rộng lớn gây ra sự đảo ngược gió mùa hoàn toàn.
Vào mùa hè, khi mặt đất tăng nhiệt độ nhanh hơn đại dương, áp thấp hình thành ở châu Á và gió ấm, ẩm từ nam đến đông nam mang theo mưa lớn, sấm sét, mang lại lượng mưa hàng năm từ 400 mm (16 in) hoặc ít hơn ở phía tây, đến hơn 1.150 mm (45 in) trên dãy núi Trường Bạch.[39] Nhiệt độ vào mùa hè trải từ rất ấm áp đến nóng, với cực đại trung bình tháng 7 dao động từ 31 °C (88 °F) ở phía Nam đến 24 °C (75 °F) ở cực Bắc.[40] Ngoại trừ ở phía bắc xa gần sông Amur, độ ẩm cao gây ra sự khó chịu lớn vào thời điểm này trong năm.[41]
Tuy nhiên, vào mùa đông, vùng khí áp cao Siberia rộng lớn gây ra những cơn gió rất lạnh, từ bắc đến bắc có nhiệt độ thấp tới −5 °C (23 °F) ở cực Nam và −30 °C (−22 °F) ở phía bắc[42] nơi vùng băng vĩnh cửu không liên tục đến phía bắc Hắc Long Giang. Tuy nhiên, vì gió từ Siberia cực kỳ khô, tuyết chỉ rơi vào một vài ngày mỗi mùa đông và không bao giờ quá dày. Điều này giải thích tại sao các vĩ độ tương ứng của Bắc Mỹ bị đóng băng hoàn toàn trong thời kỳ băng hà của Đệ tứ trong khi Mãn Châu, dù lạnh hơn, vẫn luôn quá khô để tạo thành sông băng[43] – một trạng thái được tăng cường bởi gió tây mạnh hơn từ bề mặt dải băng ở châu Âu.
Một số nhà ngôn ngữ học nổi tiếng thế giới, bao gồm Tiến sĩ Kim Bang-han, Alexander Vovin, và J. Marshall Unger đề cập đến Ngữ hệ Cao Câu Ly và một số ngôn ngữ thuộc Ngữ hệ Triều Tiên khác như Uế Mạch (Ye-Maek) hoặc Phù Dư (Buyeo) là tiếng Triều Tiên cổ một cách rõ rệt.[45] Theo một số nhà ngôn ngữ học, quê hương ngôn ngữ của Triều Tiên nguyên thủy nằm ở đâu đó tại Mãn Châu. Sau đó, những người nói ngôn ngữ Triều Tiên vốn đã có mặt ở vùng phía bắc Triều Tiên bắt đầu mở rộng về phía nam, thay thế hoặc đồng hóa những người nói theo ngữ hệ Nhật Bản và có khả năng gây nên sự di cư trong thời kỳ Yayoi.[45][46] Whitman (2012) gợi ý rằng người Triều Tiên tiền sử đã di cư xuống khu vực phía nam của Bán đảo Triều Tiên vào khoảng năm 300 trước Công nguyên và cùng tồn tại với hậu duệ của những người nông dân ở thời kỳ Vô Văn (Mumun) nói tiếng Nhật (hoặc đồng hóa họ). Cả hai đều có ảnh hưởng lẫn nhau và "hiệu ứng người sáng lập" (founder effect) sau đó làm giảm đi sự đa dạng bên trong của cả hai họ ngôn ngữ.[47]
Cùng với triều đại nhà Tống ở phía nam, người Khiết Đan ở Nội Mông đã tạo ra vương triều nhà Liêu trong khu vực, nơi tiếp tục kiểm soát các khu vực lân cận của miền Bắc Trung Quốc. Nhà Liêu là quốc gia đầu tiên kiểm soát toàn bộ Mãn Châu.[48][49]
Vào đầu thế kỷ 12, người Nữ Chân gốc Tungus, vốn là các chư hầu của nước Liêu, đã lật đổ vương triều Đại Liêu và thành lập nhà Đại Kim, tiếp tục kiểm soát các bộ phận của miền Bắc Trung Quốc và Mông Cổ sau một loạt các chiến dịch quân sự thành công. Trong triều đại nhà Nguyên (1271–1368)),[50] Mãn Châu được quản lý trong tỉnh Liêu Dương. Năm 1375, Nạp Ha Xuất (Naghachu), một tù trưởng Mông Cổ của triều đại Bắc Nguyên tại Mông Cổ ở tỉnh Liêu Dương đã xâm chiếm Liêu Đông, nhưng sau đó đã đầu hàng triều đại nhà Minh vào năm 1387. Để bảo vệ các khu vực biên giới phía bắc, nhà Minh đã quyết định "bình định" người Nữ Chân để đối phó với các vấn đề với tàn dư nhà Nguyên dọc biên giới. Nhà Minh củng cố kiểm soát Mãn Châu dưới thời Minh Thành Tổ (1402–1424), thành lập Nô Nhi can đô chỉ huy sử ti. Bắt đầu từ những năm 1580, một thủ lĩnh bộ tộc Kiến Châu Nữ Chân là Nỗ Nhĩ Cáp Xích (1558–1626) bắt đầu hợp nhất các bộ lạc Nữ Chân của khu vực. Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, người Nữ Chân nắm quyền kiểm soát phần lớn Mãn Châu. Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập triều Hậu Kim, sau trở thành triều đại nhà Thanh. Nhà Thanh đã đánh bại liên minh Evenk-Daur do chỉ huy Bombogor người Evenk dẫn đầu và chặt đầu Bombogor vào năm 1640, với kết cục là quân đội nhà Thanh tàn sát và trục xuất người Evenk và sáp nhập những người sống sót vào Bát Kỳ.[51]
Ảnh hưởng về văn hóa và tôn giáo của Trung Quốc như Tết Nguyên đán, "thần" của Trung Quốc, các họa tiết như rồng, xoắn ốc, và cuộn, nông nghiệp, chăn nuôi, phương pháp sưởi ấm, và hàng hóa vật chất như nồi sắt, lụa và bông được truyền bá trong cộng đồng những người bản địa Amur bao gồm người Udeghe, Ulchsky và Nanai.[52]
Năm 1644, sau khi thủ đô Bắc Kinh của nhà Minh bị quân nổi dậy cướp phá, người Nữ Chân (nay gọi là người Mãn) đã liên minh với tướng quân Ngô Tam Quế và giành quyền kiểm soát Bắc Kinh, lật đổ triều Đại Thuận ngắn ngủi và thiết lập triều đại nhà Thanh (1644–1912) trên toàn cõi Trung Hoa. Cuộc chinh phạt Trung Hoa của người Mãn Châu đã giết chết hơn 25 triệu người.[53]Liễu Điều biên là một hệ thống mương và kè được xây dựng bởi triều đại nhà Thanh trong thế kỷ 17 sau đó để hạn chế sự di chuyển của thường dân Hán vào Cát Lâm và Hắc Long Giang.[54] Chỉ có quân Bát Kỳ, bao gồm cả quân lính Trung Quốc, được phép định cư tại Cát Lâm và Hắc Long Giang.
Sau khi chinh phục nhà Minh, nhà Thanh thường xác định nhà nước của họ là "Trung Quốc" (中國, Zhongguo; "vương quốc trung tâm"), và gọi nó là "Dulimbai Gurun" ("vương quốc trung tâm") trong tiếng Mãn.[55][56][57] Trong Thanh thực lục, đất của nhà Thanh (bao gồm Mãn Châu và Tân Cương ngày nay, Mông Cổ, Tây Tạng) do đó được xác định là "Vương quốc Trung Hoa" trong cả tiếng Trung và tiếng Mãn trong phần lớn các trường hợp, trong khi thuật ngữ này đề cập đến đến các tỉnh truyền thống của Trung Quốc được người Hán cư trú trong số trường hợp còn lại. Người ta cũng thường sử dụng thuật ngữ "Trung Quốc" (Zhongguo, Dulimbai gurun) để chỉ nhà Thanh trong các tài liệu chính thức, điều ước quốc tế và đối ngoại. Trong các tài liệu ngoại giao, thuật ngữ "tiếng Trung Quốc" (Dulimbai gurun i bithe) dùng để chỉ các ngôn ngữ tiếng Trung, tiếng Mãn và tiếng Mông Cổ, và thuật ngữ "người Trung Quốc" (中國人 Zhongguo ren; tiếng Mãn: Dulimbai gurun i niyalma) dùng để chỉ toàn bộ đối tượng người Hán, Mãn và Mông Cổ của nhà Thanh. Các vùng đất ở Mãn Châu đã được nhà Thanh tuyên bố rõ ràng thuộc về "Trung Quốc" (Zhongguo, Dulimbai gurun) trong các sắc lệnh của nhà Thanh và trong Điều ước Nerchinsk.[58]
Tuy nhiên, thời gian cai trị của nhà Thanh đã chứng kiến một số lượng lớn dân cư người Hán tràn vào định cư trái phép và hợp pháp vào Mãn Châu để canh tác đất đai, vì chủ nhà người Mãn mong muốn nông dân Hán thuê đất của họ và trồng ngũ cốc, hầu hết những người di cư gốc Hán không bị đuổi đi như khi họ đi qua Vạn Lý Trường Thành và Liễu Điều biên, trong thế kỷ thứ mười tám, người Hán đã canh tác 500.000 ha đất thuộc sở hữu tư nhân ở Mãn Châu và 203.583 ha đất là một phần của các phủ của quan lại, bất động sản của quý tộc, và đất đai của quân Bát Kỳ, trong các đồn trú và thị trấn ở Mãn Châu, chiếm 80% dân số.[59]
Nông dân người Hán được nhà Thanh tái định cư từ phía bắc Trung Quốc đến khu vực dọc theo sông Liêu để khôi phục lại đất canh tác.[60] Đất đai bỏ hoang được những người Hán khai hoang ngoài những người Hán khác thuê đất từ địa chủ người Mãn.[61]
Mặc dù chính thức cấm người Hán định cư ở đất của người Mãn và Mông Cổ, đến thế kỷ 18, nhà Thanh đã quyết định cho người Hán tị nạn từ các tỉnh miền bắc Trung Quốc đang phải chịu nạn đói, lũ lụt và hạn hán vào định cư tại Mãn Châu và Nội Mông, để người Hán sẽ chăm bón 500.000 ha diện tích đất canh tác của Mãn Châu và hàng chục ngàn hécta ở Nội Mông vào những năm 1780.[62] Hoàng đế Càn Long cho phép nông dân người Hán chịu thiệt hại vì hạn hán chuyển tới Mãn Châu, mặc dù ông đã ban hành sắc lệnh ủng hộ cấm họ từ 1740 đến 1776.[63] Người Hán sau đó đã ồ ạt đổ vào Mãn Châu, theo cả các cách hợp pháp và bất hợp pháp, qua Vạn Lý Trường Thành và Liễu Điều biên.[64] Nông dân tá điền người Hán đã thuê hoặc thậm chí tuyên bố quyền sở hữu đất đai từ "đế quốc" và đất đai của quân Bát Kỳ người Mãn trong khu vực.[65] Bên cạnh việc di chuyển vào khu vực Liêu ở phía nam Mãn Châu, con đường nối Cẩm Châu, Phụng Thiên, Thiết Lĩnh, Trường Xuân, Hô Luân và Ninh Cổ Tháp đã được người Hán tới định cư dưới thời Càn Long, và người Hán chiếm phần lớn dân cư ở các khu vực đô thành của Mãn Châu vào năm 1800.[66] Để tăng doanh thu của ngân khố hoàng gia, nhà Thanh đã bán những vùng đất trước đây chỉ thuộc sở hữu của người Mãn dọc theo sông Tùng Hoa vào đầu triều đại của Hoàng đế Đạo Quang, và người Hán đã chiếm lấy hầu hết các thị trấn của Mãn Châu vào những năm 1840, theo Abbe Huc.[67]
Cuộc chinh phạt Siberia của Nga đã gặp phải sự kháng cự của người bản địa đối với người Cossack Nga, đã đè nát lực lượng người bản địa. Cuộc chinh phạt Siberia và Mãn Châu cũng dẫn đến sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm. Nhà sử học John F. Richards đã viết: "... Những căn bệnh mới làm suy yếu và làm nản lòng người dân bản địa Siberia. Điều tồi tệ nhất trong số đó là bệnh đậu mùa "vì sự lây lan nhanh chóng, tỷ lệ tử vong cao và sự biến dạng vĩnh viễn của những người sống sót."... Vào những năm 1690, dịch bệnh đậu mùa đã khiến số lượng người Yukagir giảm đi khoảng 44%."[68] Dưới bàn tay của những kẻ như Vasilii Poyarkov năm 1645 và Yerofei Khabarov năm 1650, một số tộc người như người Daur ở Nội Mông và Tân Cương đã bị giết bởi người Cossack Nga, đến mức được một số tác giả hiện đại coi là hành vi diệt chủng.[69] Người Daur ban đầu bỏ hoang ngôi làng của họ kể từ khi họ nghe về sự tàn ác của người Nga khi lần đầu tiên Khabarov đến.[70] Lần thứ hai người này đến, người Daur quyết định chiến đấu chống lại người Nga, vốn bị gọi một cách khinh miệt là "râu đỏ",[71] nhưng bị tàn sát bởi súng ống hiện đại của quân đội.[72] Người Cossack Nga bị người bản địa Amur gọi là la sát (羅剎), sau khi Quỷ được tìm thấy trong thần thoại Phật giáo, vì sự tàn ác của họ đối với người bộ lạc Amur, những người là đối tượng của nhà Thanh.[73] Sự thịnh vượng của Nga về Chính thống giáo Đông phương đối với các dân tộc bản địa dọc theo sông Amur được xem là mối đe dọa của nhà Thanh.[74]
Năm 1858, đế chế Mãn Thanh trên đà suy yếu đã buộc phải nhượng vùng đất Mãn Châu ở phía bắc Amur cho Nga theo Hiệp ước Aigun. Năm 1860, tại Hiệp ước Bắc Kinh, người Nga đã có được một miếng bánh diện tích Mãn Châu lớn hơn, nằm phía đông sông Ussuri. Kết quả là, Mãn Châu được chia thành một nửa của Nga được gọi là "Ngoại Mãn Châu" và một nửa còn lại của Trung Quốc được gọi là "Nội Mãn Châu" thường được gọi là "Mãn Châu" tại Trung Quốc. Do kết quả của các Hiệp ước Aigun và Bắc Kinh, Trung Quốc đã mất đi con đường thông thương tiến ra Biển Nhật Bản.
Sau năm 1860
Nội Mãn Châu cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Nga với việc xây dựng tuyến đường sắt Đông Trung Quốc qua Cáp Nhĩ Tân đến Vladivostok. Trong phong trào Sấm Quan Đông, nhiều nông dân người Hán, chủ yếu từ bán đảo Sơn Đông đã di cư tới đây. Đến năm 1921, Cáp Nhĩ Tân, thành phố lớn nhất miền bắc Mãn Châu, đã có dân số lên đến 300.000 người, trong đó có 100.000 người Nga.[75] Nhật Bản đã thay thế ảnh hưởng của Nga ở nửa phía nam của Nội Mãn Châu, là hệ quả của Chiến tranh Nga-Nhật trong các năm 1904–1905. Hầu hết các chi nhánh phía nam của Đường sắt Đông Trung Quốc đã được chuyển từ Nga sang Nhật Bản, và trở thành Đường sắt Nam Mãn Châu. Ảnh hưởng của Nhật Bản mở rộng đến Ngoại Mãn Châu sau Cách mạng Nga năm 1917, nhưng Ngoại Mãn Châu đã quay trở lại sự kiểm soát của Liên Xô vào năm 1925. Mãn Châu là một khu vực quan trọng do tài nguyên thiên nhiên phong phú bao gồm than đá, đất đai màu mỡ và đa dạng các loại khoáng sản. Đối với Nhật Bản trước Thế chiến II, Mãn Châu là một nguồn cung nguyên liệu thiết yếu. Nếu không chiếm được Mãn Châu, người Nhật có lẽ đã không thể thực hiện kế hoạch chinh phục Đông Nam Á hoặc mạo hiểm tấn công Trân Châu Cảng và Đế quốc Anh năm 1941.[76]
Được biết, trong số quân lính Bát Kỳ, cả người Mãn và người Trung Quốc (Hán quân) ở Ái Hồn, Hắc Long Giang trong những năm 1920, sẽ hiếm khi kết hôn với thường dân người Hán, nhưng họ (quân Bát Kỳ người Mãn và người Trung Quốc) sẽ chủ yếu kết hôn với nhau.[77] Owen Lattolas đã ghi chép lại rằng trong chuyến viếng thăm Mãn Châu tháng 1 năm 1930, ông đã nghiên cứu một cộng đồng ở Cát Lâm (Kirin), nơi cả quân Bát Kỳ người Mãn và người Trung Quốc đều định cư tại một thị trấn tên là Ô Lạp Nhai (Wulakai), và cuối cùng là quân Bát Kỳ người Trung Quốc không thể phân biệt được với người Mãn vì họ đã bị Mãn hóa (đồng hóa) một cách hiệu quả. Dân số người Hán đang trong quá trình tiếp thu và hòa trộn với họ khi Latt Morph viết bài báo của mình.[78]
Trong khoảng thời gian Thế chiến thứ nhất, Trương Tác Lâm tự khẳng định mình là một nguyên soái mạnh mẽ với tầm ảnh hưởng với hầu hết khu vực Mãn Châu. Trong thời kỳ cầm quyền của ông, nền kinh tế Mãn Châu phát triển vượt bậc, được hỗ trợ bởi sự di cư của người Hoa từ các vùng khác của Trung Quốc. Người Nhật đã ám sát ông vào ngày 2 tháng 6 năm 1928, trong sự kiện được gọi là Sự kiện Hoàng Cô Truân.[79] Sau sự kiện Phụng Thiên năm 1931 và cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản sau đó, người Nhật tuyên bố Nội Mãn Châu là một "quốc gia độc lập", và chỉ định hoàng đế nhà Thanh bị phế truất là Phổ Nghi làm hoàng đế bù nhìn của Mãn Châu Quốc. Dưới sự kiểm soát của Nhật Bản, Mãn Châu là một trong những khu vực được quản lý tàn bạo nhất trên thế giới, với một chiến dịch khủng bố và đe dọa có hệ thống đối với người dân địa phương người Nga và Trung Quốc bao gồm bắt giữ, bạo loạn có tổ chức và các hình thức khuất phục khác.[80] Manchukuo được Nhật Bản sử dụng làm căn cứ để xâm chiếm phần còn lại của Trung Quốc.
^Byington, Mark E. (2016). The Ancient State of Puyŏ in Northeast Asia: Archaeology and Historical Memory. Cambridge (Massachusetts) and London: Harvard University Asia Center. tr. 11, 13. ISBN978-0-674-73719-8.
^Lattimore, Owen (1934). “The Mongols of Manchuria”. Journal of the Royal Asiatic Society (bằng tiếng Anh). George Allen and Unwin, Ltd. 68 (4): 714–715. doi:10.1017/S0035869X00085245.
^"Les provinces tributaires du nord ou la Mantchourie, la Mongolie, la Kalmouquie, le Sifan, la Petit Bucharie, et autres pays vulgairement compris sous la fausse dénomination de TARTARIE", in: Mentelle, Edme; Brun, Malte (1804), Géographie mathématique, physique & politique de toutes les parties du monde, 12, H. Tardieu, tr. 144
^Kaisha, Tesudo Kabushiki and Manshi, Minami; Manchuria: Land of Opportunities; pp. 1–2. ISBN1-110-97760-3
^Climate data for Manchuria, Australian Geographer, Volume 4, 1943 - Issue 6, B. Burgoyne Chapman M.A. (Syd., Camb., and Columbia), F.R.G.S., Pages 175-179
^The Cambridge History of China, Vol. 03: "Sui and T'ang China, 589–906, Part 1," at 32, 33.
^ abVovin, Alexander (2013). "From Koguryo to Tamna: Slowly riding to the South with speakers of Proto-Korean". Korean Linguistics. 15 (2): 222–240.
^Janhunen, Juha (2010). “RReconstructing the Language Map of Prehistorical Northeast Asia”. Studia Orientalia (108). ... there are strong indications that the neighbouring Baekje state (in the southwest) was predominantly Japonic-speaking until it was linguistically Koreanized.
Dvořák, Rudolf (1895). Chinas religionen... 12, Volume 15 of Darstellungen aus dem Gebiete der nichtchristlichen Religionsgeschichte . Aschendorff (Druck und Verlag der Aschendorffschen Buchhandlung). ISBN0199792054. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2014.
Giles, Herbert A. (1912). China and the Manchus. (Cambridge: at the University Press) (New York: G. P. Putnam's Sons). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2014.
Hata, Ikuhiro. "Continental Expansion: 1905–1941". In The Cambridge History of Japan. Vol. 6. Cambridge University Press. 1988.
Hauer, Erich (2007). Corff, Oliver (biên tập). Handwörterbuch der Mandschusprache. 12, Volume 15 of Darstellungen aus dem Gebiete der nichtchristlichen Religionsgeschichte . Otto Harrassowitz Verlag. ISBN978-3447055284. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2014.
Jones, Francis Clifford, Manchuria Since 1931, London, Royal Institute of International Affairs, 1949
Kim 金, Loretta E. 由美 (2012–2013). “Saints for Shamans? Culture, Religion and Borderland Politics in Amuria from the Seventeenth to Nineteenth Centuries”. Central Asiatic Journal. Harrassowitz Verlag. 56: 169–202. JSTOR10.13173/centasiaj.56.2013.0169.
Kwong, Chi Man. War and Geopolitics in Interwar Manchuria (2017).
Lattimore, Owen (tháng Bảy–tháng Chín năm 1933). “Wulakai Tales from Manchuria”. The Journal of American Folklore. American Folklore Society. 46 (181): 272–286. doi:10.2307/535718. JSTOR535718.
Tamanoi, Mariko Asano (tháng 5 năm 2000). “Knowledge, Power, and Racial Classification: The "Japanese" in "Manchuria"”. The Journal of Asian Studies. Association for Asian Studies. 59 (2): 248–276. doi:10.2307/2658656. JSTOR2658656.
Tao, Jing-shen, The Jurchen in Twelfth-Century China. University of Washington Press, 1976, ISBN0-295-95514-7.
KISHI Toshihiko, MATSUSHIGE Mitsuhiro and MATSUMURA Fuminori eds, 20 Seiki Manshu Rekishi Jiten [Encyclopedia of 20th Century Manchuria History], Tokyo: Yoshikawa Kobunkan, 2012, ISBN978-4642014694
Santuario della Madonna delle GrazieIl santuario della Madonna delle Grazie.Stato Italia RegioneAbruzzo LocalitàTeramo IndirizzoLargo Madonna delle Grazie - Teramo Coordinate42°39′25.27″N 13°42′42.11″E / 42.657019°N 13.711697°E42.657019; 13.711697Coordinate: 42°39′25.27″N 13°42′42.11″E / 42.657019°N 13.711697°E42.657019; 13.711697 Religionecattolica TitolareMadonna delle Grazie Diocesi Teramo-Atri Consacrazione1900 ArchitettoCesare...
هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (أكتوبر 2019) إيرين هوفمان معلومات شخصية الميلاد سنة 1981 (العمر 41–42 سنة) مواطنة الولايات المتحدة الحياة العملية المدرسة الأم معهد رينسيلار للعلوم التطبيقية...
هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (نوفمبر 2019) أرنولد ساول معلومات شخصية الميلاد 30 مايو 1924 بيدفورد تاريخ الوفاة 6 أبريل 2012 (87 سنة) [1] مواطنة الولايات المتحدة الحياة العملية المدرسة الأم جا
Saidal MursalinInformasi pribadiLahir0 Juli 1964 (umur 59)IndonesiaAlma materAkademi Kepolisian (1988)Karier militerPihak IndonesiaDinas/cabang Kepolisian Negara Republik IndonesiaMasa dinas1988—2022Pangkat Komisaris Besar PolisiSatuanReserseSunting kotak info • L • B Kombes. Pol. (Purn.) Drs. Saidal Mursalin (lahir Juli 1964) adalah seorang Purnawirawan Polri yang sebelumnya menjabat sebagai Karolog Polda Sumsel. Saidal, lulusan Akpol 1988 ini berpengalaman dal...
Artikel ini perlu dikembangkan agar dapat memenuhi kriteria sebagai entri Wikipedia.Bantulah untuk mengembangkan artikel ini. Jika tidak dikembangkan, artikel ini akan dihapus. Syamsidar YahyaLahir(1914-11-11)11 November 1914Nagari Batagak, Sungai Pua, Agam, Sumatera Barat, Hindia BelandaMeninggal1975 (umur 61)Pekanbaru, Riau, IndonesiaKebangsaan IndonesiaNama lainRangkayo Hj. Syamsidar YahyaDikenal atasPejuang kemerdekaan dan hak perempuanSuami/istriAbdul Muin Dt. Rangkayo Maharajo Rang...
Johan De Muynck Johan De Muynck, 2019 Persoonlijke informatie Geboortedatum 30 mei 1948 Geboorteplaats Sleidinge, België Sportieve informatie Discipline(s) Weg Beste prestaties Ronde van Vlaanderen 13e (1971, 1978) Parijs-Roubaix 12e (1974) Ronde van Lombardije 8e (1977) Ronde van Italië 1e (1978) 2 etappezeges Ronde van Frankrijk 4e (1980) Ronde van Spanje 7e (1980) WK op de weg 12e (1980) Portaal Wielersport Johan De Muynck (Waarschoot, 30 mei 1948) is een Belgisch voormalig ...
هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (فبراير 2022) مارك أنطوان بارسيفالبيانات شخصيةالميلاد 27 أبريل 1755Rosières-aux-Salines (en)الوفاة 16 أغسطس 1836[1] (81 سنة) باريس بلد المواطنة فرنسا اللغة المستعملة الفرنسيةالمهنة ري...
Season of television series Season of television series Ang ProbinsyanoSeason 4First version of Season 4's title cardStarringCoco MartinCountry of originPhilippinesNo. of episodes91ReleaseOriginal networkABS-CBNOriginal releaseNovember 8, 2017 (2017-11-08) –March 14, 2018 (2018-03-14)Season chronology← PreviousSeason 3 Next →Season 5 List of episodes The fourth season of Ang Probinsyano, a Philippine action drama television series, premiered on ABS-CBN's Primeti...
Jorge Guillermo El margrave Jorge Guillermo de Brandeburgo-Bayreuth, Schabkunstblatt (c. 1720) por Christoph Weigel. Margrave de Brandeburgo-Bayreuth 10 de mayo de 1712-16 de noviembre de 1726Predecesor Cristián ErnestoSucesor Jorge Federico Carlos Información personalNombre en alemán Georg Wilhelm von Brandenburg-Bayreuth Nacimiento 16 de noviembre de 1678 Bayreuth, Margraviato de Brandeburgo-BayreuthFallecimiento 18 de diciembre de 1726 (48 años)Bayreuth, Margraviato de Brandeburgo-Bayr...
Wishnutama KusubandioKomisaris Utama TelkomselPetahanaMulai menjabat 14 Februari 2021Komisaris Utama TokopediaPetahanaMulai menjabat 14 Februari 2021Menteri Pariwisata dan Ekonomi Kreatif Indonesia ke-12Masa jabatan23 Oktober 2019 – 23 Desember 2020PresidenJoko WidodoWakilAngela TanoesoedibjoPendahuluArief YahyaPenggantiSandiaga UnoKepala Badan Pariwisata dan Ekonomi Kreatif ke-2Masa jabatan23 Oktober 2019 – 23 Desember 2020PresidenJoko WidodoPendahuluTriawan Mun...
Kawasan Alam dan Budaya-Sejarah KotorSitus Warisan Dunia UNESCOKriteriaBudaya: i, ii, iii, ivNomor identifikasi125Pengukuhan1979 (3)Endangered1979–2003 Kawasan Alam dan Budaya-Sejarah Kotor adalah sebuah Situs Warisan Dunia UNESCO yang terletak di Montenegro yang diinskripsikan pada 1979. Kawasan tersebut meliputi kota lama Kotor (Bahasa Italia: Cattaro), benteng Kotor, dan kawasan sekitar dari Teluk Kotor. Referensi Koordinat: 42°25′48″N 18°46′12″E / 42.4300...
Handball at the 2022 South American GamesVenueCEO Centro de Entrenamiento OlímpicoLocationAsunción, ParaguayDates6–15 OctoberNations7Teams5 (men)6 (women)← 20182026 → Handball competition of the 2022 South American Games in Asunción was held from 6 to 15 October at the CEO Centro de Entrenamiento Olímpico. The top two teams in each tournament qualified to the 2023 Pan American Games.[1] Participating teams Men Argentina Chile Paraguay...
Canadian soccer player (born 1988) Liam Fraser Fraser playing for Toronto FC in 2020Personal informationFull name Liam Scott Fraser[1]Date of birth (1998-02-13) February 13, 1998 (age 25)Place of birth Toronto, Ontario, CanadaHeight 1.85 m (6 ft 1 in)Position(s) MidfielderTeam informationCurrent team FC DallasNumber 18Youth career Waterloo United Peace Arch AC Surrey Guildford Vancouver Whitecaps FC2013–2016 Toronto FCSenior career*Years Team Apps (Gls)2015 Toron...
Электронная лампа аудиоусилителя, снабжённая механическим демпфером вибраций для снижения микрофонного эффекта. Микрофо́нный эффе́кт — нежелательное явление, при котором некоторая часть электрической цепи воспринимает звуковые колебания и вибрацию подобно микро...
State of Nigeria Kwara redirects here. For other uses, see Kwara (disambiguation). State in North Central, NigeriaKwaraState FlagSealNicknames: State of HarmonyLocation of the State of Kwara in NigeriaCoordinates: 8°30′N 5°00′E / 8.500°N 5.000°E / 8.500; 5.000Country NigeriaGeopolitical ZoneNorth CentralDate created27 May 1967CapitalIlorinNumber of LGAs16Government • BodyGovernment of Kwara State • Governor (List)Abdulrazaq Abd...
Body responsible for election procedures in Iran Election OfficeElection commission overviewJurisdictionIranHeadquartersTehran, IranMinister responsibleAhmad Vahidi, MinisterElection commission executiveMohammad-Taghi Shahcheraghi [1], HeadParent departmentMinistry of Interior The Election Office (Persian: ستاد انتخابات کشور) is the body charged for implementation of election procedures in Iran and is subordinate to the Ministry of Interior.[2] List of Heads Th...
Annual Heavy Metal festival in Copenhagen CopenhellCopenhell 2023GenreHeavy metal, all genres of metalDatesJuneLocation(s)Refshaleøen, DenmarkYears active2010-presentOrganised byLive NationWebsitecopenhell.dk Copenhell is a heavy metal festival held annually at Refshaleøen in Copenhagen, Denmark, since 2010. It was one of the first open-air heavy metal festivals in Denmark. The festival started in 2010 with two stages, the main stage Helviti and secondary stage Hades. The Upcoming Stage was...
Species of flowering plant Oenothera californica Oenothera californica subsp. avita Conservation status Apparently Secure (NatureServe) Scientific classification Kingdom: Plantae Clade: Tracheophytes Clade: Angiosperms Clade: Eudicots Clade: Rosids Order: Myrtales Family: Onagraceae Genus: Oenothera Species: O. californica Binomial name Oenothera californica(S.Watson) S.Watson 1876 Oenothera californica, known by the common name California evening primrose, is a species of flowering...
ديفيد جوليوس (بالإنجليزية: David Jay Julius) معلومات شخصية الميلاد 4 نوفمبر 1955 (69 سنة) ساحل برايتون[1] مواطنة الولايات المتحدة عضو في الأكاديمية الوطنية للعلوم، والأكاديمية الأمريكية للفنون والعلوم، والأكاديمية المجرية للعلوم الحياة العملية المدر...