Quickmatch là một trong số tám tàu khu trục lớp Q được chế tạo như Chi hạm đội Khẩn cấp 3 trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh.[2] Các con tàu này có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.692 tấn Anh (1.719 t), và lên đến 2.411 tấn Anh (2.450 t) khi đầy tải.[2] Nó có chiều dài chung 358 foot 3 inch (109,19 m) và chiều dài ở mực nước là 339 foot 6 inch (103,48 m); mạn thuyền rộng 35 foot 9 inch (10,90 m).[2] Động lực được cung cấp bởi hai nồi hơi Admiralty ba nồi gắn liền với hai turbine hơi nước Parsons, cung cấp một công suất 40.000 shp (30.000 kW) để dẫn động hai trục chân vịt.[3]Quickmatch có khả năng đạt tốc độ 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph);[2] thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 220 sĩ quan và thủy thủ.[3]
Quickmatch được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng J. Samuel White and Company ở Cowes thuộc đảo Wight vào ngày 6 tháng 2 năm 1941.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 4 năm 1942, được đỡ đầu bởi phu nhân phó chủ tịch xưởng tàu;[2] và được nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 14 tháng 9 năm 1942.[2] Cho dù nhập biên chế như một tàu chiến Hải quân Australia, nó vẫn thuộc quyền sở hữu của Hải quân Anh cho đến đầu thập niên 1950, khi nó được tặng cho Australia như một món quà.[3]
Trong những năm tiếp theo, Quickmatch nhiều lần được bố trí đến vùng biển Nhật Bản và Triều Tiên, xen kẻ với thời gian hoạt động tại vùng biển lân cận Australia.[3] Vào ngày 15 tháng 5 năm 1950, nó trải qua một đợt tái trang bị lớn, được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm tại Xưởng hải quân Williamstown ở Williamstown, Victoria. Nó nhập biên chế trở lại vào ngày 23 tháng 9 năm 1955,[3] và tham gia các hoạt động thường xuyên để hỗ trợ cho Malaya trong thời kỳ khẩn cấp; được tặng thưởng Vinh dự Chiến trận thứ bảy cho các hoạt động tại đây.[5][6] Nó được đưa về lực lượng dự bị tại Williamstown vào ngày 26 tháng 4 năm 1963, và sau đó phục vụ như một tàu tiện nghi, cho đến khi được bán cho hãng Fujita Salvage Company Limited tại Osaka, Nhật Bản vào ngày 15 tháng 2 năm 1972 để tháo dỡ. Con tàu được kéo rời khỏi Melbourne để đi Nhật Bản vào ngày 6 tháng 7 năm 1972.
Tham khảo
Chú thích
^Lenton, H. T. (1998). British and Empire Warships of the Second World War. Greenhill Book. ISBN9781557500489.