Lớp tàu khu trục N có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.760 tấn Anh (1.790 t), và lên đến 2.550 tấn Anh (2.590 t) khi đầy tải.[3]Napier có chiều dài ở mực nước là 229 foot 6 inch (69,95 m) và chiều dài chung 356 foot 6 inch (108,66 m), mạn thuyền rộng 35 foot 8 inch (10,87 m) và chiều sâu tối đa của mớn nước là 16 foot 4 inch (4,98 m).[3] Động lực được cung cấp bởi ba nồi hơi Admiralty nối liền với hai turbine hơi nước hộp số Parsons và dẫn động hai trục chân vịt, cho phép có được tổng công suất 40.000 shp (30.000 kW).[4]Napier có thể đạt tốc độ tối đa 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph);[3] thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 226 sĩ quan và thủy thủ.[4]
Trong tuần lễ hoạt động đầu tiên của con tàu, nhiều thủy thủ đã đe dọa binh biến qua việc từ chối rời phòng ăn dưới hầm; sự cố được tháo dỡ khi các sĩ quan đe dọa một cách hài hước sẽ dùng dây lôi cổ họ ra khỏi phòng.[7] Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy trên biển, con tàu trải qua những hoạt động đầu tiên trong chiến tranh như một tàu hộ tống vận tải tại Bắc Đại Tây Dương.[4]Napier cùng với tàu chị em Nestor được điều sang Địa Trung Hải, đến nơi vừa kịp lúc để tham gia cuộc triệt thoái khỏi đảo Crete.[4] Chiếc tàu khu trục được điều đến Port Said trong hai tháng rưỡi, phục vụ như tàu chỉ huy cho cuộc phòng thủ cảng vào ban đêm, trong khi được sửa chữa và tái trang bị vào ban ngày.[4] Sau khi hoàn tất vào tháng 8, nó đảm trách vai trò soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 7.[4] Trong thời gian còn lại của năm, Napier tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại tại Địa Trung Hải và Hồng Hải cũng như vận chuyển binh lính giữa Cộng hòa Síp và Haifa.[4]
Vào đầu năm 1942, Napier, Nestor và Nizam được điều động sang Hạm đội Đông.[4] Nhiệm vụ đầu tiên của chúng là hộ tống cho tàu sân bayHMS Indomitable đi đến khu vực Malaya-Java.[4] Đến tháng 6, Napier và Nestor quay trở lại Địa Trung Hải tham gia Chiến dịch Vigorous, một đoàn tàu vận tải lớn tăng viện cho Malta đang bị phong tỏa.[4]Napier quay trở lại nhiệm vụ cùng Hạm đội Đông sau khi chuyến đi tăng viện không thành công, và vào tháng 9 đã tham gia Chiến dịch Madagascar, đặc biệt là trong việc Majunga đầu hàng và chiếm đóng Tamatave.[4] Chiếc tàu khu trục thực hiện tuần tra khu vực Đông Ấn Độ Dương từ tháng 10 năm 1942 cho đến tháng 3 năm 1943, khi nó tham gia lực lượng tuần tra chống tàu ngầm Đại Tây Dương đặt căn cứ tại Nam Phi.[4] Vào đầu năm 1944, Napier được phân về vùng biển Ấn Độ;[4] rồi sau đó lên đường đi Australia cho một đợt tái trang bị kéo dài tại Williamstown, quay trở lại cùng Hạm đội Đông vào đầu tháng 11.[4] Trong tháng 12, Napier hỗ trợ các chiến dịch của Lữ đoàn 74 Bộ binh Ấn Độ,[4] là sở chỉ huy cho các hoạt động đổ bộ lên Akyab, Myebon và Ramree.
Napier được tặng thưởng sáu danh hiệu Vinh dự Chiến trận cho thành tích hoạt động trong chiến tranh.[10][11] Thủy thủ đoàn người Australia rời tàu vào ngày 25 tháng 10 năm 1945, và Napier được hoàn trả cho Hải quân Hoàng gia Anh.[6] Tuy nhiên con tàu không nhập biên chế trở lại, và được cho bán để tháo dỡ vào năm 1955. Nó được kéo đến Briton Ferry để tháo dỡ vào tháng 1 năm 1956.[8]
^“Allied Ships Present in Tokyo Bay During the Surrender Ceremony, ngày 2 tháng 9 năm 1945”. Naval Historical Center – U.S. Navy. ngày 27 tháng 5 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2007. Taken from Commander in Chief, U.S. Pacific Fleet and Pacific Ocean Areas (CINCPAC/CINCPOA) A16-3/FF12 Serial 0395, ngày 11 tháng 2 năm 1946: Report of Surrender and Occupation of Japan
^“Navy Marks 109th Birthday With Historic Changes To Battle Honours”. Royal Australian Navy. ngày 1 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl= và |archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate= và |archive-date= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate= và |access-date= (trợ giúp)
Cassells, Vic (2000). The Destroyers: Their Battles and Their Badges. East Roseville, NSW: Simon & Schuster. ISBN0-7318-0893-2. OCLC46829686.
Frame, Tom; Baker, Kevin (2000). Mutiny! Naval Insurrections in Australia and New Zealand. St. Leonards, NSW: Allen & Unwin. ISBN1-86508-351-8. OCLC46882022.