Globulin kháng tế bào lympho

Globulin chống tế bào lympho (ALG) là một loại truyền kháng thể động vật chống lại các tế bào T của người được sử dụng trong điều trị thải ghép cấp tính trong ghép tạng. Việc sử dụng lần đầu tiên được Thomas Starzl báo cáo vào năm 1966.[1] Việc sử dụng nó trong cấy ghép đã được thay thế bởi thymoglobulin từ năm 1984 đến 1999.[2]

Nó cũng đã được sử dụng trong điều trị thiếu máu bất sản.[3][4][5]

Nó ít được sử dụng hơn so với globulin chống thymocyte tương tự (ATG), và giống như ATG, nó có liên quan đến hội chứng giải phóng cytokine trong thời gian ngắn và tăng nguy cơ rối loạn tế bào lympho sau ghép trong thời gian dài. ALG có nhiều khả năng gây ra tác dụng phụ hơn ATG, nhưng an toàn hơn OKT3.

Sản phẩm được sản xuất bởi UpjohnMerieux, cũng như Schweizerisches Serum- und Impfinstitut ở Bern, sản phẩm sau được tạo ra bằng cách tiêm cho ngựa bằng tế bào lympho ống lồng ngực của con người và được gọi là "L lymphoser Berna".[3][6]

Tham khảo

  1. ^ Hakim, Nadey; Danovitch, Gabriel (2013). Transplantation Surgery (bằng tiếng Anh). Springer Science & Business Media. tr. 11. ISBN 9781447136897.
  2. ^ Verghese, PS; Dunn, TB; Chinnakotla, S; Gillingham, KJ; Matas, AJ; Mauer, MS (tháng 1 năm 2014). “Calcineurin inhibitors in HLA-identical living related donor kidney transplantation”. Nephrology, Dialysis, Transplantation. 29 (1): 209–18. doi:10.1093/ndt/gft447. PMC 3888312. PMID 24414376.
  3. ^ a b Frickhofen, N; Kaltwasser, JP; Schrezenmeier, H; Raghavachar, A; Vogt, HG; Herrmann, F; Freund, M; Meusers, P; Salama, A (ngày 9 tháng 5 năm 1991). “Treatment of aplastic anemia with antilymphocyte globulin and methylprednisolone with or without cyclosporine. The German Aplastic Anemia Study Group”. The New England Journal of Medicine. 324 (19): 1297–304. doi:10.1056/NEJM199105093241901. PMID 2017225.
  4. ^ Kaya B, Davies CE, Oakervee HE, Silver NC, Gawler J, Cavenagh JD (tháng 9 năm 2005). “Guillain Barré syndrome precipitated by the use of antilymphocyte globulin in the treatment of severe aplastic anaemia”. J. Clin. Pathol. 58 (9): 994–5. doi:10.1136/jcp.2004.020354. PMC 1770826. PMID 16126887.
  5. ^ Lichtman, Marshall A.; Spivak, Jerry L.; Boxer, Laurence A.; Shattil, Sanford J.; Henderson, Edward S. biên tập (2000). “Commentary on and reprint of Speck B, Gluckman E, Haak HL, van Rood JJ, Treatment of aplastic anaemia by antilymphocyte glubulin with and without allogeneic bone marrow infusions, in Lancet (1977) 2:1145–1148”. Hematology landmark papers of the twentieth century. San Diego: Academic Press. tr. 709–714. doi:10.1016/B978-012448510-5.50159-X. ISBN 978-0-12-448510-5.
  6. ^ Speck, B; Gratwohl, A; Nissen, C; Osterwalder, B; Würsch, A; Tichelli, A; Lori, A; Reusser, P; Jeannet, M (1987). “A comparison between ALG and bone marrow transplantation in treatment of severe aplastic anemia”. Thymus. 10 (1–2): 147–58. PMID 3324403.

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!