Giải bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản

Giải bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản
Mùa giải hiện tại hoặc giải đấu:
Sự kiện thể thao đang diễn ra 2024 Nippon Professional Baseball season
Tiền thânJapanese Baseball League
Môn thể thaoBóng chày
Thành lập1950; 75 năm trước (1950)
Mùa đầu tiên
Ủy viên hội đồngSakakibara Sadayuki
Số đội12
Quốc giaNhật Bản
Đương kim vô địchYokohama DeNA Baystars
(Lần thứ 3)
Nhiều danh hiệu nhấtYomiuri Giants (22 lần)
Vòng loạiAsia Series (2005–2013)
Trang chủNPB.jp

Giải bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản (日本野球機構 Nippon Yakyū Kikō?) hay NPB là cấp độ bóng chày cao nhất ở Nhật Bản. Tại Nhật, giải đấu thường được gọi là Puro Yakyū (プロ野球?), có nghĩa là Bóng chày Chuyên nghiệp

Bên ngoài Nhật Bản, nó thường được gọi là "bóng chày Nhật Bản". Nguồn gốc của giải có thể được bắt nguồn từ sự hình thành của "Câu lạc bộ bóng chày Đại Nhật Bản Tokyo" (大日本東京野球倶楽部 Dai-Nippon Tōkyō Yakyū Kurabu?) được thành lập ở Tokyo vào năm 1934, và là sự khởi đầu cho giải đấu đầu tiên của môn thể thao này ở Nhật Bản là Giải Bóng chày Nhật Bản (1936–1949) hai năm sau đó, và giải đấu tiếp tục được tổ chức cho đến những năm cuối của Thế chiến II. Giải đấu ngày nay gọi là NPB được thành lập khi giải đấu của môn thể thao này cơ cấu lại vào năm 1950, tạo ra hai giải đấu với sáu đội mỗi giải ở Central LeaguePacific League, cùng loạt trận play-off và Nippon Series xác định nhà vô địch hàng năm bắt đầu đây.

Tổ chức giải

NPB bao gồm hai giải đấu, Central League và Pacific League, mỗi giải có sáu đội. Ngoài ra còn có hai giải đấu nhỏ chuyên nghiệp hạng hai, Eastern League và Western League, có lịch thi đấu ngắn hơn dành cho các cầu thủ đang phát triển.

Mùa giải bắt đầu vào cuối tháng Ba hoặc đầu tháng Tư và kết thúc vào tháng Mười, với hai hoặc ba trò chơi All-star vào tháng Bảy. Trong những thập kỷ gần đây trước năm 2007, hai giải đấu có lịch thi đấu từ 130 đến 140 trận đấu thông thường của mùa giải, trong đó 146 trận đấu của Central League vào năm 2005 và 2006 là ngoại lệ duy nhất. Cả hai giải đấu kể từ đó đã trải qua 143 trận mỗi mùa giải, mỗi mùa có 73 trận trên sân nhà và trên sân khách. Nhìn chung, các đội Nhật Bản chơi sáu trận một tuần, nghỉ thứ Hai hàng tuần.

Sau khi kết thúc mỗi mùa giải thông thường, các đội xuất sắc nhất từ ​​mỗi giải đấu sẽ tiếp tục thi đấu ở các loạt đấu play-off để tìm ra nhà vô địch mỗi giải đấu, sau đó hai đội vô địch mỗi giải sẽ thi đấu với nhau trong loạt trận chung kết gọi là "Nippon Series" hay "Japan Series" để tìm ra nhà vô địch chung cuộc.

Năm 2004, Pacific League chơi ít hơn 5 trận so với các đội thuộc Central League trong mùa giải thông thường và sử dụng thể thức playoff mới để xác định nhà vô địch (đội sẽ tiến tới Japan Series). Các đội ở vị trí thứ ba và thứ hai thi đấu trong một loạt ba trận đấu (tất cả đều ở sân nhà của đội đứng thứ hai) và đội thắng trong loạt trận đó sẽ đấu với đội hạng nhất trong loạt trận trên sân nhà của đội hạng nhất. Vào năm 2007, Central League cũng đã thông qua giải đấu của Pacific League, và kể từ đó thể thức này được gọi là Climax Series với hai đội chiến thắng, một đội từ mỗi giải đấu, thi đấu ở Japan Series.[1]

Vấn đề tài chính

Vấn đề tài chính khiến nhiều đội bóng trong giải đấu đau đầu. Người ta tin rằng ngoại trừ Yomiuri GiantsHanshin Tigers, tất cả các đội đều hoạt động với những khoản trợ cấp đáng kể, thường lên tới 6 tỷ yên (khoảng 73 triệu USD), từ các doanh nghiệp chủ quản của họ. Việc tăng lương cho các cầu thủ thường bị đổ lỗi, nhưng từ khi bắt đầu giải đấu chuyên nghiệp, các công ty mẹ đã trả khoản chênh lệch như lợi nhuận quảng cáo. Hầu hết các đội chưa bao giờ cố gắng cải thiện tài chính của họ thông qua tiếp thị mang tính xây dựng. Ngoài ra, các đội ở Central League trong lịch sử có lợi nhuận cao hơn nhiều so với Pacific League, có các đội nổi tiếng như Giants và Tigers.

Số lượng các vùng có đội đại diện trong giải đấu tăng từ bốn lên năm vào năm 1988, khi Nankai Hawks (nay là Fukuoka SoftBank Hawks) chuyển đến Fukuoka; và tăng lên bảy vùng từ năm 2003 đến năm 2005, khi Nippon-Ham Fighters chuyển đến Hokkaidō và Osaka Kintetsu Buffaloes hợp nhất với Orix BlueWave (trở thành Orix Buffaloes) và suất thành viên bị thay thế bởi Tohoku Rakuten Golden Eagles.

Cho đến năm 1993, bóng chày là môn thể thao đồng đội duy nhất được chơi chuyên nghiệp ở Nhật Bản. Vào năm này, giải bóng đá chuyên nghiệp J.League được thành lập. Liên đoàn bóng đá mới đặt các đội ở các thủ phủ của các tỉnh trên khắp đất nước — thay vì tập hợp họ lại trong và xung quanh Tokyo — và các đội được đặt tên theo địa điểm của họ thay vì theo tên các doanh nghiệp tài trợ.

Làn sóng cầu thủ Nhật Bản xuất ngoại sang Major League Baseball thi đấu, bắt đầu với việc Masanori Murakami thi đấu 2 mùa giải 1964, 1965 cho đội San Francisco Giants, 31 năm sau, vào năm 1995 khi Nomo Hideo "giải nghệ" ở Kintetsu Buffaloes, sang Mỹ ký hợp đồng với Los Angeles Dodgers, cũng đã làm tăng thêm vấn đề tài chính. Sự tham dự bị ảnh hưởng khi các đội mất đi những cầu thủ có khả năng tiếp thị tốt nhất, trong khi xếp hạng truyền hình giảm khi người chuyển sang theo dõi các chương trình phát sóng các trận đấu thuộc MLB. Để không khuyến khích các cầu thủ rời đi chơi ở Bắc Mỹ, hoặc ít nhất là có chút đền bù cho việc mất cầu thủ, bóng chày Nhật Bản và MLB đã đồng ý về một hệ thống chuyển nhượng cầu thủ theo hợp đồng, còn gọi là Posting System. Các đội MLB muốn thương lượng với một cầu thủ, họ phải nộp hồ sơ dự thầu cho một "phí đăng tuyển", mà đội MLB chiến thắng sẽ trả phí cho đội Nhật Bản nếu cầu thủ ký hợp đồng với đội đó. Tuy nhiên, các cầu thủ tự do không phải là đối tượng của hệ thống đăng tuyển, do vậy có thể ký hợp đồng với các đội MLB mà không gặp trở ngại.

Lịch Sử

Nguồn gốc

Đội bóng chày chuyên nghiệp đầu tiên ở Nhật Bản được thành lập bởi ông trùm truyền thông Shōriki Matsutarō vào cuối năm 1934 và được gọi là Dai Nippon Tokyo Yakyu Kurabu ("Câu lạc bộ bóng chày toàn Nhât - Tokyo"). Sau khi giao hữu với một đội hình ngôi sao của Mỹ bao gồm Babe Ruth, Jimmie Foxx, Lou GehrigCharlie Gehringer, đội đã trải qua mùa giải 1935 du đấu tại Hoa Kỳ, giành chiến thắng 93/102 trận đấu với các đội bán chuyên hay thuộc giải chuyên nghiệp độc lập Pacific Coast League. Theo nhà sử học Joseph Reaves, "Hạn chế nhỏ duy nhất đối với sự nổi tiếng của đội ở Hoa Kỳ là các ký tự kanji và tên tiếng Nhật rườm rà. Để khắc phục vấn đề này, đội đã đổi tên sang Tokyo Giants, lấy cảm hứng từ đội New York Giants thời bấy giờ… "

Từ năm 1936 đến năm 1950, bóng chày chuyên nghiệp ở Nhật Bản là một giải đấu thống nhất mang tên Liên đoàn Bóng chày Nhật Bản (JBL). Đội thống trị của giải đấu trong thời kỳ này là Tokyo Kyojin, đã giành được 9 chức vô địch giải đấu, trong đó có 6 chức vô địch liên tiếp từ năm 1938 đến năm 1943. (Đội chính thức được đổi tên thành Yomiuri Giants vào năm 1947).

Thành lập NPB

Sau mùa giải năm 1949, các chủ sở hữu đội JBL đã tổ chức lại cơ cấu giải thành NPB, trong đó chủ sở hữu của Daiei Stars, Nagata Masaichi, đã thúc đẩy một hệ thống hai giải đấu, trở thành Liên đoàn Thái Bình Dương (Pacific League, ban đầu được gọi là Liên đoàn Bóng chày Taiheiyo) và Liên đoàn Trung tâm (Central League). Nagata trở thành chủ tịch đầu tiên của Pacific League. Hệ thống giải nay được gọi là Nippon Professional Baseball bắt đầu thi đấu vào mùa giải năm 1950.

Bốn đội JBL đã tham gia Central League: Chunichi Dragons, Hanshin Tigers, Yomiuri GiantsShochiku Robins (trước đây là Taiyō Robins). Cùng với đó bốn đội mới đã được thành lập: Hiroshima Carp, Kokutetsu Swallows, Nishi-Nippon PiratesTaiyō Whales.

Bốn đội JBL khác tham gia Pacific League: Hankyu Braves, Nankai Hawks, Daiei Stars và Tokyu Flyers. Để điền vào giải đấu, ba đội mới đã được thành lập: Kintetsu Pearls, Mainichi OrionsNishitetsu Clippers.

Shōriki Matsutarō, chủ sở hữu của Giants, đóng vai trò là ủy viên không chính thức của NPB và giám sát việc tổ chức serie chung kết Nippon Series) đầu tiên, trong đó có Mainichi Orions đánh bại Shochiku Robins với tỉ số trận thắng 4-2.

Mở rộng và sáp nhập

Nishi-Nippon Pirates của Central League tồn tại trong một mùa giải - họ đứng thứ sáu vào năm 1950, và mùa giải sau đó sáp nhập vào Nishitetsu Clippers (cũng có trụ sở tại Fukuoka) để tạo thành Nishitetsu Lions. Điều này khiến số đội thuộc giải Central League giảm xuống còn bảy đội. Năm 1952, bất kỳ đội nào của Central League kết thúc mùa giải với tỷ lệ chiến thắng dưới 0,300(30%) sẽ bị giải tán hoặc sáp nhập với các đội khác. Shochiku Robins rơi vào diện này vào cuối mùa, và được hợp nhất với Taiyō Whales để trở thành Taiyō Shochiku Robins vào tháng 1 năm 1953. Điều này cho phép Central League thu hẹp lại còn sáu đội chẵn.

Năm 1954, một đội Pacific League mới được thành lập, Takahashi Union, tăng số đội trong giải đó lên tám. Mặc dù đội có đầy đủ các cầu thủ từ các đội Pacific League khác, Union đã phải vật lộn ngay từ đầu và kết thúc ở nửa cuối bảng xép hạng trong cả 2 mùa giải. Năm 1957, Union sáp nhập với Daiei Stars để tạo thành Daiei Union(và một lần nữa nâng số đội của Pacific League xuống còn bảy). Union tồn tại trong một mùa giải duy nhất, kết thúc ở vị trí cuối cùng, cách đội đầu bảng 43-1/2 trận thắng. Năm 1958, Union hợp nhất với Mainichi Orions để tạo thành Daimai Orions. Pacific League xuống còn có 6 đội.

Sau những phát triển nhượng quyền thương mại khác nhau này, vào cuối những năm 1950, hệ thống giải NPB từ số lượng ban đầu là 15 đội xuống con số hiện tại là 12.

Những năm 1960 và 1970

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1964, Murakami Masanori của Nankai Hawks trở thành cầu thủ Nhật Bản đầu tiên chơi ở giải Major League Baseball khi anh lên thi đấu đội một cho CLB San Francisco Giants; ông trở lại Nhật Bản vào năm 1966. Tranh chấp về hợp đồng của ông cuối cùng đã dẫn đến Thỏa thuận Hợp đồng Cầu thủ Mĩ - Nhật năm 1967. Vì vậy, đã không một cầu thủ Nhật Bản khác tới chơi bóng tại Bắc Mĩ trong suốt gần 30 năm sau đó.

Tiếp tục sự thống trị của họ từ JBL, Yomiuri Giants đã giành được 9 chức vô địch Japan Series liên tiếp từ năm 1965 đến năm 1973.

Vụ bê bối Sương mù Đen đã làm rung chuyển hệ thống NPB từ năm 1969 đến năm 1971. Một loạt vụ bê bối bán độ đã dẫn đến việc một số cầu thủ ngôi sao bị đình chỉ thi đấu dài hạn, cắt giảm lương hoặc bị cấm thi đấu chuyên nghiệp vĩnh viễn[2]; dẫn đến việc bóng chày suy giảm sứa phổ biền và dẫn đến việc Nishitetsu Lions và Toei Flyers bị bán và đổi chủ.

Từ năm 1973 đến năm 1982, Pacific League đã đã áp dụng mô hình xếp hai đội dẫn đầu bảng nửa đầu và nửa cuối mùa giải thi đấu playoff để quyết định đại diện tranh chức vô địch trong Nippon Series. Năm 1975, Pacific League đã thông qua việc sử dụng vị trí tay đập chỉ định (designated hitter).

Những năm 1980 và "Seibu bất khả chiến bại"

Sau khi nằm ở nửa cuối bảng xếp hạng trong phần lớn những năm 1960 và 1970, vào năm 1983, Seibu Lions bắt đầu một giai đoạn thống trị. Với biệt danh "Seibu bất khả chiến bại" trong suốt những năm 1980 và 1990, họ giành được 11 chức vô địch Pacific League và 8 chức vô địch Nippon Series từ năm 1982 đến năm 1994. Những chú Sư tử có đội hình liên tục duy trì được sức cạnh tranh trong thời kỳ này, với những tay đập như Akiyama Koji, Kiyohara Kazuhiro, và Orestes Destrade, hàng thủ với những cầu thủ phòng ngự chất lượng như Ishige Hiromichi, Tsuji Hatsuhiko và chặn bóng Ito Tsutomu. Trong số những tay ném mà Lions có trong thời kỳ này có "tàu tốc hành phuơng Đông" Kuo Tai-yuan, Higashio Osamu, Kudoh Kimiyasu, Watanabe Hisanobu, và các tay ném tiếp sức Katori YoshitakaShiozaki Tetsuya.

Những ngoại binh người Mỹ cũng đã ghi những dấu ấn lớn tại giải NPB vào thời kì này, nổi bật là anh em nhà Lee (Leron LeeLeon Lee), Greg "Boomer" Wells, Randy BassRalph Bryant , những người đã trở thành những công thần tại đội bóng của họ[3].

Nomo và những ngôi sao chuyển đến MLB

Năm 1995, tay ném ngôi sao Nomo Hideo, nhằm tránh các hạn chế của Thỏa thuận Hợp đồng Cầu thủ Mĩ - Nhật, đã "giải nghệ" trong màu áo Kintetsu Buffaloes và ký hợp đồng với Los Angeles Dodgers. Nomo đã ra sân trong 14 mùa giải ở MLB trước khi giải nghệ vào năm 2008. Trong đó anh đã giành được giải thưởng Tân binh của năm vào năm 1995, hai lần dẫn đầu số strike out của giải đấu, và cũng hai lần đạt được no-hitter (cầu thủ Nhật Bản duy nhất đạt được thành tích trên tại MLB cho đến khi Iwakuma Hisashi đạt được thành tích vào tháng 8 năm 2015). Thành công tại MLB của Nomo đã dẫn đến việc nhiều cầu thủ NPB có nguyện vọng chuyển sang MLB hơn, và cuối cùng dẫn đến sự ra đời của "hệ thống đăng tuyển" vào năm 1998.

Kể từ khi Nomo đến MLB, hơn 60 cầu thủ NPB đã chơi tại giải MLB. Một số ví dụ đáng chú ý hơn bao gồm:

Suzuki Ichiro, hay Ichiro (イチロー) - sau chín năm gắn bó với Orix BlueWave, năm 2001 Ichiro đã được BlueWave đăng tuyển và kí hợp đồng thi đấu cho Seattle Mariners, trở thành cầu thủ không thuộc vị trí tay ném người Nhật Bản đầu tiên được ký hợp đồng với MLB. Ichiro đã dẫn đầu nhánh giải American League (AL) về tỷ lệ đập trả bóng thành công (hit) và số lần cướp lũy (stolen base) để dành cùng lúc danh hiệu Tân binh của năm và Cầu thủ xuất sắc nhất của AL năm 2001. Ichiro, một trong những cầu thủ đạt 3.000 hit trong sự nghiệp tại MLB, đã thiết lập một số kỷ lục đánh bóng MLB, bao gồm kỷ lục số hit trong một mùa giải với 262. Anh đã có mười mùa giải liên tiếp với 200 hit, kỷ lục dài nhất của bất kỳ cầu thủ nào trong lịch sử. Xét tổng thông số tại các giải nhà nghề Nhật Bản và Mỹ, Ichiro là cầu thủ đạt nhiều hit nhất mọi thời đại. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2022, Ichiro được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Seattle Mariners[4].

Matsui Hideki - slugger (tay đập hạng nặng) đã chơi 10 mùa giải cho Yomiuri Giants, và sau đó chuyển đến MLB vào năm 2003, thi đấu cho New York Yankees trong 7 mùa giải tiếp theo, trong đó dành được danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất World Series 2009[5]. Anh là tay đập hạng nặng đầu tiên đến từ Nhật Bản thành công ở MLB.

Sasaki Kazuhiro - một tay ném nổi tiếng hơn với kiểu ném bóng "chẻ ngón" (splitter) của mình, còn có biệt danh "The Fang". Năm 2000, anh giành được giải thưởng Tân binh xuất sắc nhất năm của American League sau khi ném bảo toàn (save) 37 trận cho Mariners. Năm 2001, anh là người góp phần quan trọng giúp đội hình hủy diệt của Mariners giành kỷ lục 116 trận thắng tại American League, trong đó anh save 45 trận. Năm 2001 và 2002, anh được chọn là All-Star. Sau năm 2003, anh trở lại Nhật Bản để chơi cho NPB cho đến khi giải nghệ vào năm 2005.

Matsui Kazuo - sau tám mùa giải xuất sắc với Seibu Lions, Matsui ký hợp đồng với New York Mets vào ngày 15 tháng 12 năm 2003, vào năm 2004, trở thành tiền vệ (infielder) người Nhật Bản đầu tiên chơi cho một đội tại MLB. Bảy mùa giải của anh ấy ở MLB không thành công như mong đợi, và sau đó anh đã trở lại NPB.

Ohtani Shohei - một cầu thủ lưỡng nhiệm (vừa là tay ném vừa có thể tham gia tốt đập bóng tấn công), từng 5 lần được chọn chơi trận All-Star khi chơi cho Hokkaido Nippon-Ham Fighters. Ohtani giữ kỷ lục về cú ném nhanh nhất trong lịch sử NPB với vận tốc 165 km/h (102,5 mph)[6]. Sau khi ký hợp đồng với Los Angeles Angels, Ohtani đã giành được giải thưởng Tân binh của năm 2018 của American League. Vào năm 2021, anh trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử MLB được vinh danh là All-Star với tư cách vừa là cầu thủ ném bóng vừa là cầu thủ vị trí. Sau khi mùa giải kết thúc, Ohtani đã được nhất trí bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất AL.

Sáp nhập và đình công năm 2004

Vào tháng 9 năm 2004, các cầu thủ chuyên nghiệp của Nhật Bản đã đình công lần đầu tiên sau hơn 70 năm. Cuộc đình công nảy sinh từ một cuộc tranh chấp diễn ra giữa giới chủ sở hữu của 12 đội bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản và liên đoàn cầu thủ (được dẫn đầu bởi Furuta Atsuya, cầu thủ nổi tiếng của Yakult Swallows), liên quan đến việc hợp nhất Osaka Kintetsu BuffaloesOrix BlueWave. Giới chủ muốn loại bỏ Buffaloes đã không còn năng lực tài chính và hợp nhất hai giải, do vấn đề lợi nhuận giữa các đội ở Central League cao hơn nhiều so với Pacific League với các đội nổi tiếng như Yomiuri Giants và Hanshin Tigers. Sau khi thương lượng, các chủ sở hữu đồng ý đảm bảo sự tồn tại của Chiba Lotte Marines và Fukuoka Daiei Hawks vốn cũng kêu gọi hợp nhất, để Central League với sáu đội và Pacific League với năm đội[7].

Mâu thuẫn leo thang giữa liên đoàn cầu thủ và giới chủ, và lên đến đỉnh điểm khi chủ của Yomiuri Giants, Watanabe Tsuneo, phát ngôn gây tranh cãi rằng Furuta "cũng chỉ là một cầu thủ", ngụ ý rằng các tiếng nói của các cầu thủ là không đáng kể[8]. Điều này đã thu hút sự ủng hộ Furuta và hiệp hội cầu thủ rất lớn từ truyền thông, và vụ tranh chấp được mệnh danh là một trong những sự kiện lớn nhất trong lịch sử bóng chày Nhật Bản. Các đề xuất và sửa đổi liên quan đến các trận liên giải đấu, sự kiện tuyển chọn cầu thủ và quản lý giải đấu cũng đã được thảo luận giữa hiệp hội cầu thủ và giới chủ trong giai đoạn này.

Cuộc đình công ban đầu được lên kế hoạch cho tất cả các trận đấu vào thứ Bảy và Chủ nhật trong tháng đó, bắt đầu từ ngày 11 tháng 9, nhưng đã bị lùi lại do thỏa thuận về một cuộc họp khác giữa hiệp hội cầu thủ và giới chủ vào ngày 10 tháng 9. Các cầu thủ quyết định đình công vào ngày 18 và 19 tháng 9, 2004, khi các cuộc đàm phán không đạt được tiến triển nào[9], vì không còn đủ thời gian xem xét trong mùa giải.

Tranh chấp chính thức kết thúc sau khi hai nhóm đạt được đồng thuận vào ngày 23 tháng 9 năm 2004. Theo một phần của thỏa thuận, Buffaloes được phép hợp nhất với Blue Wave (thành Orix Buffaloes). Ngoài ra, Rakuten Golden Eagles được thành lập, trở thành đội mới tại Pacific League (với mức phí gia nhập giải đã được cắt giảm) để giữ nguyên cấu trúc giải đấu sáu đội trước đây. Các thỏa thuận khác bao gồm tổ chức các trận đấu liên giải để giúp Pacific League có cơ hội tiếp xúc và bắt kịp độ phổ biến của Central League. Tất cả những thay đổi này diễn ra từ mùa giải 2005.

Thể thức thi đấu liên giải

Hai nhánh giải bắt đầu chơi một số trận đấu với nhau vào mùa giải 2005, với mỗi đội Pacific League chơi hai serie ba trận (một sân nhà, một trận sân khách) với mỗi đội thuộc Central League và ngược lại. Con số này đã được giảm xuống còn hai serie hai trận vào năm 2007. Tất cả các trận đấu liên giải được chơi trong khoảng thời gian bảy tuần gần giữa mùa giải.

Tính đến cuối mùa giải 2017, các đội Pacific League đã thắng nhiều trận liên giải hơn trong 12 mùa, trong đó năm 2009 là mùa duy nhất mà Central League thắng nhiều trận hơn.

Serie vô địch nhánh giải/Climax Series

Sau năm 2004, hệ thống đấu loại trực tiếp ba đội được giới thiệu tại Pacific League, được gọi là "Pacific League Championship Series". Các đội có thành tích tốt thứ nhì và thứ ba sẽ chơi một serie bán kết ba lượt trận, với đội chiến thắng sẽ tiến vào serie chung kết năm trận đấu với đội đứng đầu. Người chiến thắng trở thành đại diện của Pacific League tranh vô địch Nippon Series.

Kể từ khi Pacific League áp đảo tại Nippon Series sau khi giới thiệu hệ thống đấu loại trực tiếp của giải đấu này, một hệ thống tương tự đã được đưa vào Central League vào năm 2007 và các series playoff nội giải được đổi tên thành Climax Series trong cả hai nhánh giải đấu. Thống kê cầu thủ và thứ tự đội trong sự kiện tuyển chọn cầu thủ (dựa trên thành tích mùa giải của đội) không được tính trong giai đoạn này.

Lịch sử gần đây

Năm 2011 Sân vận động bóng chày Miyagi, sân nhà của Rakuten Eagles, đã bị hư hại nặng nề bởi trận động đất và sóng thần Tōhoku.

Mùa giải 2013 chứng kiến loại bóng thi đấu có tính nảy xa hơn đã được bí mật đưa vào thi đấu tại NPB, dẫn đến sự gia tăng rõ rệt về số điểm ghi được trên trên toàn giải đấu[10]. Tiền vệ Wladimir Balentien của Tokyo Yakult Swallows đã phá kỷ lục 55 pha đập ghi điểm trực tiếp (homerun) một mùa của NPB của vua homerun mọi thời đại Oh Sadaharu vào năm 1964, Tuffy Rhodes năm 2001 và Alex Cabrera vào năm 2002. Balantien kết thúc mùa giải với 60 homerun. Ủy viên giải Katō Ryōzō đã buộc phải từ chức vì vụ bê bối sau việc thay đổi bóng thi đấu được tiết lộ.

Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền của cựu Thủ tướng Abe Shinzō đã đề xuất mở rộng NPB lên tổng số 16 đội bằng cách thêm hai nhượng quyền mở rộng 2 đội mỗi nhánh giải. Mục tiêu của động thái như vậy sẽ là tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế của các địa phương tiếp nhận các đội mới. Okinawa, Shizuoka, Shikoku và Niigata đã được xác định là các khu vực có thể là nhà cho các đội nói trên[11].

Mùa giải NPB 2020 đã bị trì hoãn nhiều lần do đại dịch COVID-19. Ban đầu các trận giao hữu tiền mùa giải phải chơi mà không có khán giả, nhưng với ngày khai mạc là 20 tháng 3 vẫn không thay đổi. Với việc dỡ bỏ các tình trạng khẩn cấp tại các thành phố lớn của Nhật Bản, NPB thông báo rằng họ sẽ bắt đầu mùa giải thường xuyên vào ngày 19 tháng 6 nhưng không có khán giả. Loạt trận khởi động tiền mùa giải mở màn diễn ra trở lại vào ngày 26 tháng 5. Mùa giải này kéo dài 120 trận bắt đầu vào ngày 19 tháng 6. Vào ngày 10 tháng 7, NPB bắt đầu cho phép một số lượng hạn chế người hâm mộ vào sân cổ vũ, với kế hoạch giảm bớt các hạn chế hơn nữa trong tương lai gần[12]. Vào ngày 19 tháng 9, lượng khán đã được mở rộng lên tối đa 20.000 người hâm mộ mỗi trận, hoặc 50% sức chứa của sân vận động.

Các cầu thủ ngoại binh

Trong phần lớn lịch sử của mình, các quy định của NPB đã áp đặt "gaijin waku", giới hạn số lượng cầu thủ không phải là người Nhật trong mỗi đội là hai hoặc ba người — bao gồm cả quản lý và / hoặc huấn luyện viên. Thậm chí ngày nay, một đội không thể có nhiều hơn bốn ngoại binh trong danh sách 31 người, mặc dù không có giới hạn về số lượng ngoại binh mà họ có thể ký hợp đồng. Nếu có bốn người, tất cả họ không thể là tay ném bóng và tất cả đều không thể là tay chơi vị trí phòng ngự. Điều này hạn chế chi phí và sự cạnh tranh đối với các ngoại đắt tiền, và tương tự như các quy tắc trong giới hạn đội hình của nhiều liên đoàn thể thao châu Âu đối với các cầu thủ không phải là người châu Âu.

Tuy nhiên, các "lính đánh thuê" đã là một đặc điểm của các giải đấu chuyên nghiệp Nhật Bản kể từ năm 1934. Rất nhiều ngoại binh - đặc biệt là cầu thủ mang quốc tịch Mỹ - đã chơi NPB. Hai cầu thủ gốc Đài Loan Go ShoseiOshita Hiroshi đều là những cầu thủ trụ cột trong những năm 1940. Những người chơi Mỹ được chiêu mộ tại các đội NPB vào những năm 1960. Các cầu thủ Mỹ nắm giữ một số kỷ lục NPB, bao gồm tỉ lệ đạt hit cao nhất trong sự nghiệp (Leron Lee, 0,334), tỉ lệ đạt hit một mùa cao nhất (Randy Bass, 0,389) và kỷ lục đáng ngờ về tay đập có số lần strikeout nhiều nhất trong một mùa giải (Ralph Bryant (204). Có những ngoại binh Mĩ xếp hạng 3 (Tuffy Rhodes, 55) và hạng 5 (Randy Bass, 54) trong danh sách nhiều homerun nhất trong một mùa giải, và hạng 2 về số điểm đập (RBI) t mùa giải (Bobby Rose, 153). Cầu thủ ngoại vệ người Hà Lan - Curaçao, Wladimir Balentien, giữ kỷ lục NPB về số homerun trong một mùa giải với 60 lần vào năm 2013.

Ngoại binh châu Á, bao gồm các cầu thủ người Hàn Quốc cũng có những dấu ấn khi thi đấu tại NPB, bao gồm những cầu thủ như Lee Seung-yuop, Sun Dong-yol, Baek In-chun, Lee Jong-beomLee Dae-ho. Người Nhật Bản gốc Venezuela Alex Ramírez (cầu thủ ngoại duy nhất tính đến hiện tại là thành viên của Meikyuukai), các ngoại binh người Venezuela như Alex Cabrera, Bobby Marcano (đã qua đời vào năm 1990) và Roberto Petagine đều có sự nghiệp NPB thành công và lâu dài. Vận động viên giữ lũy ba người Cộng hòa Dominica José Fernández đã chơi 11 năm tại NPB, với tỉ lệ đạt hit là 0,282 lần đánh bóng với 206 lần homerun và 772 RBI.

Nhiều ngoại binh nổi tiếng nhất đã đến Nhật Bản sau khi không tìm được thành công ở MLB; xem "Big in Japan".

Kể từ những năm 1970, các nhân sự ngoại quốc cũng đã tạo ra ảnh hưởng các vị trí quản lý và huấn luyện của các đội NPB, với 2 huấn luyện viên trưởng Bobby ValentineTrey Hillman (đều có quốc tịch Mỹ) dẫn dắt các đội của họ đến chức vô địch Nippon Series.

Đội

Đội Thành phố Sân vận động Sức chứa Thành lập
Central League
Chunichi Dragons Nagoya, Aichi Vantelin Dome Nagoya 40,500 15/1/1936[13]
Hanshin Tigers Nishinomiya, Hyōgo Sân vận động Hanshin Koshien 47,757 10/12/1935
Hiroshima Toyo Carp Hiroshima, Hiroshima Sân vận động Mazda 32,000 5/12/1949
Tokyo Yakult Swallows Shinjuku, Tokyo Meiji Jingu Stadium 37,933 12/1/1950
Yokohama DeNA BayStars Yokohama, Kanagawa Yokohama Stadium 30,000 15/12/1949
Yomiuri Giants Bunkyō, Tokyo Tokyo Dome 46,000 26/12/1934
Pacific League
Chiba Lotte Marines Chiba, Chiba Sân vận động ZOZO Marine 30,000 26/11/1949
Fukuoka SoftBank Hawks Fukuoka, Fukuoka Mizuho PayPay Dome Fukuoka 38,561 22/2/1938
Hokkaido Nippon-Ham Fighters Kitahiroshima, Hokkaidō ES CON Field Hokkaido 35,000 6/11/1945
Orix Buffaloes Osaka, Osaka (chính)
Kobe, Hyōgo (tạm thời)
Kyocera Dome Osaka (chính)
Hotto Motto Field Kobe (tạm thời)
36,477

35,000

23/1/1936 (với Hankyu Braves)

1/12/2004 (với Orix Buffaloes)[14]

Saitama Seibu Lions Tokorozawa, Saitama Belluna Dome 33,921 26/11/1949
Tohoku Rakuten Golden Eagles Sendai, Miyagi Rakuten Mobile Park Miyagi 30,508 2/112004

Nhà vô địch

Đội Vô địch Á quân Mùa giải vô địch Mùa giải về nhì
Yomiuri Giants 22 14 1951, 1952, 1953, 1955, 1961, 1963, 1965, 1966, 1967, 1968, 1969, 1970, 1971, 1972, 1973, 1981, 1989, 1994, 2000, 2002, 2009, 2012 1956, 1957, 1958, 1959, 1976, 1977, 1983, 1987, 1990, 1996, 2008, 2013, 2019, 2020
Saitama Seibu Lions 13 8 1956, 1957, 1958, 1982, 1983, 1986, 1987, 1988, 1990, 1991, 1992, 2004, 2008 1954, 1963, 1985, 1993, 1994, 1997, 1998, 2002
Fukuoka SoftBank Hawks 11 9 1959, 1964, 1999, 2003, 2011, 2014, 2015, 2017, 2018, 2019, 2020 1951, 1952, 1953, 1955, 1961, 1965, 1966, 1973, 2000
Tokyo Yakult Swallows 6 3 1978, 1993, 1995, 1997, 2001, 2021 1992, 2015, 2022
Orix Buffaloes 5 10 1975, 1976, 1977, 1996, 2022 1967, 1968, 1969, 1971, 1972, 1978, 1984, 1995, 2021, 2023
Chiba Lotte Marines 4 2 1950, 1974, 2005, 2010 1960, 1970
Hiroshima Toyo Carp 3 4 1979, 1980, 1984 1975, 1986, 1991, 2016, 2018
Hokkaido Nippon-Ham Fighters 3 4 1962, 2006, 2016 1981, 2007, 2009, 2012
Chunichi Dragons 2 8 1954, 2007 1974, 1982, 1988, 1999, 2004, 2006, 2010, 2011
Yokohama DeNA BayStars 2 1 1960, 1998 2017
Hanshin Tigers 2 5 1985, 2023 1962, 1964, 2003, 2005, 2014
Tohoku Rakuten Golden Eagles 1 0 2013
Osaka Kintetsu Buffaloes 0 4 1979, 1980, 1989, 2001
Shochiku Robins 0 1 1950

Giải thưởng

Kỉ lục

Thông số tấn công trong một mùa giải

Central League Pacific League Overall
Player Year Player Year Player Year
Tỉ lê đạt hit
Hoa Kỳ Randy Bass .389 1986 Nhật Bản Ichiro .387 2000 Hoa Kỳ Randy Bass .389 1986
Hoa Kỳ Warren Cromartie .378 1989 Nhật Bản Ichiro .385 1994 Nhật Bản Ichiro .387 2000
Nhật Bản Uchikawa Seiichi .378 2008 Hàn Quốc Harimoto Isao a .383 1970 Nhật Bản Ichiro .385 1994
Homerun
Hà Lan Wladimir Balentien b 60 2013 Hoa Kỳ Tuffy Rhodes 55 2001 Hà Lan Wladimir Balentien 60 2013
Nhật Bản Murakami Munetaka 56 2022 Venezuela Alex Cabrera 55 2002 Nhật Bản Munetaka Murakami 56 2022
Đài Loan Oh Sadaharu c 55 1964 Nhật Bản Nomura Katsuya 52 1963 Đài Loan Oh Sadaharu 55 1964
Nhật Bản Ochiai Hiromitsu 52 1985 Hoa Kỳ Tuffy Rhodes 55 2001
Venezuela Alex Cabrera 55 2002
Số điểm đập (RBI)
Nhật Bản Kozuru Makoto 161 1950 Nhật Bản Ochiai Hiromitsu 146 1985 Nhật Bản Kozuru Makoto 161 1950
Hoa Kỳ Bobby Rose 153 1999 Nhật Bản Nomura Katsuya 135 1963 Hoa Kỳ Bobby Rose 153 1999
Nhật Bản Makoto Imaoka 147 2005 Nhật Bản Nakamura Norihiro 132 2001 Nhật Bản Imaoka Makoto 147 2005
Số hit
Hoa Kỳ Matt Murton 214 2010 Nhật Bản Shogo Akiyama 216 2015 Nhật Bản Shogo Akiyama 216 2015
Nhật Bản Nori Aoki 209 2010 Nhật Bản Ichiro Suzuki 210 1994 Hoa Kỳ Matt Murton 214 2010
Venezuela Alex Ramírez d 204 2007 Nhật Bản Tsuyoshi Nishioka 206 2010 Nhật Bản Ichiro Suzuki 210 1994
Số lần cướp lũy
Nhật Bản Matsumoto Tadashi [ja] 76 1983 Nhật Bản Fukumoto Yutaka 106 1972 Nhật Bản Fukumoto Yutaka 106 1972
Nhật Bản Kanayama Jiro [ja] 74 1950 Nhật Bản Fukumoto Yutaka 95 1973 Nhật Bản Fukumoto Yutaka 95 1973
Nhật Bản Takahashi Yoshihiko 73 1985 Nhật Bản Fukumoto Yutaka 94 1974 Nhật Bản Fukumoto Yutaka 94 1974
Số strikeout
Nhật Bản Murakami Munetaka 184 2019 Hoa Kỳ Ralph Bryant 204 1993 Hoa Kỳ Ralph Bryant 204 1993
Nhật Bản Iwamura Akinori 173 2004 Hoa Kỳ Ralph Bryant 198 1990 Hoa Kỳ Ralph Bryant 198 1990
Nhật Bản Sato Teruaki 173 2021 Hoa Kỳ Ralph Bryant 187 1989 Hoa Kỳ Ralph Bryant 187 1989

a Harimoto là người Hàn Quốc sinh ra và lớn lên tại Nhật Bản (xem người Triều Tiên tại Nhật Bản).

b Vì tất cả người dân Curaçao đều có quốc tịch Hà Lan và Balentien đã đại diện cho Hà Lan trên phạm vi quốc tế, anh ấy được liệt kê ở đây là người Hà Lan.

c Mặc dù sinh ra ở Nhật Bản nhưng Oh lại mang quốc tịch Đài Loan (quốc tịch của cha ông) thay vì Nhật Bản.

d Ramírez không có quốc tịch Nhật Bản cho đến năm 2019 và do đó được liệt kê với quốc tịch Venezuela trong sự nghiệp thi đấu của mình.

Thông số giao bóng trong một mùa giải

Central League Pacific League Overall
Player Year Player Year Player Year
Số điểm thua trung bình
Nhật Bản Murayama Minoru 0.98 1970 Nhật Bản Inao Kazuhisa 1.06 1956 Nhật Bản Murayama Minoru 0.98 1970
Nhật Bản Murayama Minoru 1.19 1959 Nhật Bản Tanaka Masahiro 1.272 2011 Nhật Bản Inao Kazuhisa 1.06 1956
Nhật Bản Murayama Minoru 1.20 1962 Nhật Bản Tanaka Masahiro 1.273 2013 Nhật Bản Murayama Minoru 1.19 1959
Số trận thắng
Nhật Bản Sanada Juzo 39 1950 Nhật Bản Inao Kazuhisa 42 1961 Nhật Bản Inao Kazuhisae 42 1961
Nhật Bản Gondo Hiroshi 35 1961 Nhật Bản Sugiura Tadashi 38 1959 Nhật Bản Sanada Juzo 39 1950
Nhật Bản Bessho Takehiko 33 1952 Nhật Bản Inao Kazuhisa 35 1957 Nhật Bản Sugiura Tadashi 38 1959
Số trận bảo toàn (Save)
Nhật Bản Iwase Hitoki 46 2005 Hoa Kỳ Dennis Sarfate 54 2017 Hoa Kỳ Dennis Sarfate 54 2017
Nhật Bản Fujikawa Kyuji 46 2007 Hoa Kỳ Dennis Sarfate 43 2016 Nhật Bản Iwase Hitoki 46 2005
Nhật Bản Sasaki Kazuhiro 45 1998 Hoa Kỳ Dennis Sarfate 41 2015 Nhật Bản Fujikawa Kyuji 46 2007
Số strikeout
Nhật Bản Enatsu Yutaka 401 1968 Nhật Bản Inao Kazuhisa 353 1961 Nhật Bản Enatsu Yutaka 401 1968
Hàn Quốc Kaneda Masaichi f 350 1955 Nhật Bản Sugiura Tadashi 336 1959 Nhật Bản Inao Kazuhisa 353 1961
Nhật Bản Enatsu Yutaka 340 1970 Nhật Bản Inao Kazuhisa 334 1958 Hàn Quốc Kaneda Masaichi 350 1955

d Kỷ lục ở Nhật Bản là 0,73, được thiết lập bởi Fujimoto Hideo trong mùa giải Giải bóng chày Nhật Bản năm 1943, cũng là kỷ lục ERA thế giới, vượt qua 0,86 của Tim Keefe của đội Troy Trojan vào năm 1880.

e Kỷ lục ở Nhật Bản được chia sẻ giữa Inao và Viktor Starukhin, người cũng ghi được 42 trận thắng trong mùa giải Giải bóng chày Nhật Bản năm 1942.

f Mặc dù sinh ra ở Nhật Bản nhưng Kaneda không có quốc tịch Nhật Bản cho đến năm 1959 mà thay vào đó là công dân Hàn Quốc.

Thông số tấn công trong sự nghiệp

[cần dẫn nguồn]

Cầu thủ Số năm thi đấu
Tỉ lệ đạt hit[15]
Nhật Bản Aoki Norichika .325 2004–2011, 2018–nay
Hoa Kỳ Leron Lee .320 1977–1987
Nhật Bản Wakamatsu Tsutomu .31918 1971–1989
Hàn Quốc Harimoto Isao .31915 1959–1981
Home Runs
Đài Loan Oh Sadaharu 868 1959–1980
Nhật Bản Nomura Katsuya 657 1954–1980
Nhật Bản Kadota Hiromitsu 567 1970–1992
Số hit
Hàn Quốc Harimoto Isao 3085 1959–1981
Nhật Bản Nomura Katsuya 2901 1954–1980
Đài Loan Oh Sadaharu 2786 1959–1980
Số RBI (điểm đập)
Đài Loan Oh Sadaharu 2170 1959–1980
Hàn Quốc Harimoto Isao 1988 1954–1980
Nhật Bản Kadota Hiromitsu 1678 1970–1992
Số lần cướp lũy
Nhật Bản Fukumoto Yutaka 1065 1969–1988
Nhật Bản Hirose Yoshinori 596 1955–1977
Nhật Bản Shibata Isao 579 1962–1981
Số strikeout
Nhật Bản Kiyohara Kazuhiro 1955 1986–2008
Nhật Bản Tanishige Motonobu 1838 1989-2015
Nhật Bản Akiyama Koji 1712 1981–2002
OPS
Đài Loan Oh Sadaharu 1.080 1959–1980
Nhật Bản Matsui Hideki .995 1993–2002
Venezuela Alex Cabrera .990 2001–2012

Career pitching

Cầu thủ Số năm thi đấu
ERA (điểm thua trung bình)
Nhật Bản Fujimoto Hideo 1.90 1942–1955
Số trận thắng
Nhật Bản Kaneda Masaichi 400 1950–1969
Nhật Bản Yoneda Tetsuya 350 1956–1977
Nhật Bản Koyama Masaaki 320 1953–1973
Nhật Bản Suzuki Keishi 317 1966–1985
Nhật Bản Bessho Takehiko 310 1942–1960
Nga Viktor Starukhin 303 1936–1955
Số strikeout
Nhật Bản Kaneda Masaichi 4490 1950–1969
Nhật Bản Yoneda Tetsuya 3388 1956–1977
Nhật Bản Koyama Masaaki 3159 1953–1973
Nhật Bản Suzuki Keishi 3061 1966–1985
Số trận bảo toàn
Nhật Bản Iwase Hitoki 407 1999–2018
Nhật Bản Takatsu Shingo 286 1991–2003, 2006–2007
Nhật Bản Sasaki Kazuhiro 252 1990–1999, 2004–2005

Kỷ lục ERA

Những trận perfect game:

Ngày Cầu thủ ném bóng (Đội) Tỷ số Đối thủ Sân vận động
28 tháng 6 năm 1950 Fujimoto Hideo (Yomiuri Giants) 4–0 Nishi-Nippon Pirates Sân vận động Aomori
19 tháng 6 năm 1955 Takechi Fumio (Kintetsu Pearls) 1–0 Daiei Stars Sân vận động Ōsaka
19 tháng 9 năm 1956 Miyaji Yoshitomo (Kokutetsu Swallows) 6–0 Hiroshima Carp Sân vận động Kanazawa
21 tháng 8 năm 1957 Kaneda Masaichi (Kokutetsu Swallows) 1–0 Chunichi Dragons Sân vận động Chunichi
19 tháng 6 năm 1958 Sadao Nishimura (Nishitetsu Lions) 1–0 Toei Flyers Sân vận động Komazawa
11 tháng 8 năm 1960 Gentaro Shimada (Taiyō Whales) 1–0 Ōsaka Tigers Sân vận động Kawasaki
20 tháng 6 năm 1961 Moritaki Yoshimi (Kokutetsu Swallows) 1–0 Chunichi Dragons Sân vận động Korakuen
1 tháng 5 năm 1966 Sasaki Yoshiro (Taiyō Whales) 1–0 Hiroshima Carp Sân vận động thành phố Hiroshima
21 tháng 5 năm 1966 Tanaka Tsutomu (Nishitetsu Lions) 2–0 Nankai Hawks Sân vận động Heiwadai
14 tháng 9 năm 1968 Sotokoba Yoshiro (Hiroshima Toyo Carp) 2–0 Taiyō Whales thành phố Hiroshima
6 tháng 10 năm 1970 Sasaki Koichiro (Kintetsu Buffaloes) 3–0 Nankai Hawks Sân vận động Ōsaka
21 tháng 8 năm 1971 Takahashi Yoshimasa (Toei Flyers) 4–0 Nishitetsu Lions Sân vận động Korakuen
10 tháng 10 năm 1973 Yagisawa Soroku (Lotte Orions) 1–0 Taiheiyo Club Lions Sân vận động Miyagi
31 tháng 8 năm 1978 Imai Yutaro (Hankyu Braves) 5–0 Lotte Orions Sân vận động Miyagi
18 tháng 5 năm 1994 Makihara Hiromi (Yomiuri Giants) 6–0 Hiroshima Toyo Carp Fukuoka Dome
1 tháng 11 năm 2007 Yamai Daisuke and Iwase Hitoki (Chunichi Dragons) 1–0† Hokkaido Nippon-Ham Fighters Nagoya Dome
10 tháng 4 năm 2022 Sasaki Rōki (Chiba Lotte Marines) 6–0 Orix Buffaloes Sân vận động ZOZO Marine
  • †: Trận thứ 5 của Japan Series; Trong NPB, những trận perfect game do nhiều tay ném đạt được (thay vì một) không được công nhận chính thức. Tuy nhiên, nó được WBSC. (Liên đoàn Bóng chày và Bóng mềm Thế giới, cơ quan quản lý bóng chày quốc tế) công nhận chính thức là thành tích perfect game.

Thi đấu quốc tế

Trước năm 2000, Đội tuyển bóng chày Nhật Bản chỉ tuyển cử các cầu thủ không chuyên (cầu thủ cao trung và đại học, cầu thủ thuộc các giải doanh nghiệp, v.v) đi thi đấu quốc tế. Tuy nhiên, các cầu thủ chuyên nghiệp bắt đầu được triệu tập lên tuyển Nhật thi đấu tại Thế vận hội Sydney năm 2000, và tới Thế vận hội Athens năm 2004 toàn bộ đội tuyển Nhật bao gồm các cầu thủ NPB. Tính tới năm 2023, Đội tuyển Nhật Bản từ khi bắt đầu sử dụng các cầu thủ NPB đã dành 3 chức vô địch Giải Bóng chày Thế giới (WBC), 1 chức vô địch giải WBSC Premier 12, 1 huy chương vàng Thế vận hội Mùa hè và vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng liên đoàn thế giới WBSC.[16]

Kể từ năm 1986, Major League Baseball (MLB) cử đội hình ngôi sao (All-Stars) tham gia du đấu cuối mùa hai năm một lần ở Nhật Bản, được gọi là MLB Japan All-Star Series, bao gồm loạt đấu giao hữu với các đội hình ngôi sao của NPB hoặc gần đây nhất là Đội tuyển quốc gia Nhật Bản năm 2014.

Trận giao hữu gần đây nhất, nhân kỷ niệm 80 năm thành lập bóng chày chuyên nghiệp của Nhật Bản, giữa một đội hình chung của hai đội Hanshin Tigers và Yomiuri Giants với đội hình ngôi sao MLB đã diễn ra tại Sân vận động Koshien vào ngày 11 tháng 11 năm 2014.

  1. ^ “How does the Japanese Baseball League (NPB) work?”. Baseball in Japan - Your Guide to Nippon Professional Baseball (bằng tiếng Anh). 9 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  2. ^ SportStorm (3 tháng 9 năm 2021), Black Mist Scandal: Japan's Biggest Baseball Scandal Ever, truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025
  3. ^ Gaijin Baseball (24 tháng 5 năm 2021), The Golden Age of the Gaijin - NPB's Foreign Stars of the 1980s (feat. The Yakyu Cosmopolitan), truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025
  4. ^ “Ichiro Suzuki - Mariners Hall of Fame | Seattle Mariners”. MLB.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  5. ^ Report, Post Staff (5 tháng 11 năm 2009). “World Series MVP | New York Post” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  6. ^ Trí, Dân (12 tháng 12 năm 2023). “Siêu sao bóng chày vừa ký hợp đồng kỷ lục thế giới 700 triệu USD là ai?”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  7. ^ Gaijin Baseball (13 tháng 12 năm 2021), The Orix-Kintetsu Merger - The Story of the 2004 NPB Realignment, truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025
  8. ^ “JapanBall.com - The Complete Guide to Japanese Baseball”. web.archive.org. 16 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  9. ^ “Japanese Baseball Players Strike For First Time - 2004-09-18”. Voice of America (bằng tiếng Anh). 27 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  10. ^ “A juiced baseball scandal in Japan”. SI (bằng tiếng Anh). 12 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  11. ^ Fujita, Junko (20 tháng 5 năm 2014). “Japan's new plan to beat deflation - more baseball”. The Star (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  12. ^ “NPB looks to lift 5,000-fan limit as COVID-19 cases diminish in Japan”. World Baseball Softball Confederation (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.
  13. ^ “Index by team”. NPB. NPB. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
  14. ^ “Orix Buffaloes up and running”. The Japan Times. Kyodo News. 2 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2019.
  15. ^ Ichiro Suzuki đạt thành tích 0,353 trong sự nghiệp ở Nhật Bản (1993–2000), nhưng không có đủ số điểm để đủ điều kiện trở thành lãnh đạo sự nghiệp.
  16. ^ “野球┃世界ランキング最新版!男子・日本代表・WBSC世界ランク”. web.archive.org. 11 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2025.

Đọc thêm

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Nippon Professional Baseball Bản mẫu:Nippon Professional Baseball Seasons Bản mẫu:Professional Baseball

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!