Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Khu rừng lau, một trường thiên tiểu thuyết gồm 4 tập: Ba sinh hương lửa (1962), Người đàn bà bên kia vĩ tuyến (1964), Tình yêu thánh hóa (1965), và Những ngả sông (1966). Theo Lê Văn, đặc phái viên Việt ngữ của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn ông, có dẫn chuyện rằng "Ba Sinh Hương Lửa người ta thường ví như những tác phẩm lớn của Nga như Chiến tranh và hòa bình" trong đó nội dung mô tả lại những cảm xúc đớn đau của một thế hệ thanh niên mới lớn tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó phát giác ra mình đã bị lợi dụng như công cụ đấu tranh giai cấp của những người cộng sản và "có lẽ chính vì thế mà anh đã bị cộng sản bỏ tù khi họ khi chiếm được miền Nam"[3]
Ông là tác giả của khoảng 25 cuốn sách. Chuyện ngụ ngôn của ông có tựa đề Con cá mắc cạn đã được dịch ra tiếng Anh (The Stranded Fish)[5] và có trong sách Việt Nam: bạn đồng hành văn chương của một du khách (Vietnam: A traveler's literary companion)[6] do John Balaban và Nguyễn Quí Đức biên soạn.
^Wessel & Lieberman Booksellers[liên kết hỏng], "The Stranded Fish", Description: Saigon: Do Thanh Nhan, 1971. First Edition. Softbound. Narrow octavo. 23pp printed on pink dyed paper. Black & white drawings by Vo Dinh. Stapled green illustrated wrappers. Very Good+ with slight tanning to spine. Translation by Vo Dinh. Text in Vietnamese and English Item # 41390