Could I Have This Kiss Forever

"Could I Have This Kiss Forever"
Đĩa đơn của Whitney HoustonEnrique Iglesias
từ album EnriqueWhitney: The Greatest Hits
Phát hành10 tháng 9 năm 2000 (2000-09-10)
Thể loạiLatin pop
Thời lượng3:55
Hãng đĩaArista
Sáng tácDiane Warren
Sản xuất
Thứ tự đĩa đơn của Whitney Houston
"I Learned from the Best"
(1999)
"Could I Have This Kiss Forever"
(2000)
"If I Told You That"
(2000)
Thứ tự đĩa đơn của Enrique Iglesias
"Be with You"
(2000)
"Could I Have This Kiss Forever"
(2000)
"Sad Eyes"
(2000)
Video âm nhạc
"Could I Have This Kiss Forever" trên YouTube

"Could I Have This Kiss Forever" là một bản song ca của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Whitney Houston và nghệ sĩ thu âm người Tây Ban Nha Enrique Iglesias, được viết lời bởi Diane Warren. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong album phòng thu tiếng Anh đầu tay của Iglesias, Enrique (1999), như là một bản ballad mang phong cách Latin chậm và được sản xuất bởi David Foster. Sau đó, bài hát đã được thu âm lại bởi đội sản xuất Metrophonic (bao gồm Mark TaylorBrian Rawling) với giai điệu sôi động hơn, và được phát hành vào ngày 10 tháng 9 năm 2000 bởi Arista Records như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album tổng hợp đầu tiên của Houston, Whitney: The Greatest Hits (2000), và là đĩa đơn thứ tư trích từ Enrique.

Sau khi phát hành, "Could I Have This Kiss Forever" nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao màn thể hiện của Houston trong bài hát, nhưng cũng vấp phải nhiều tranh cãi về quá trình sản xuất của nó và màn thể hiện của Iglesias. Tuy nhiên, nó đã gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Hà Lan và Thụy Sĩ, và lọt vào top 10 ở hầu hết những thị trường nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở Bỉ (Wallonia), Đức, Tây Ban Nha và Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, bài hát chỉ gặt hái những thành công tương đối, nơi nó đạt vị trí thứ 52 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.

Video ca nhạc cho "Could I Have This Kiss Forever" được dạo diễn bởi Francis Lawrence, trong đó Houston và Iglesias ở hai nơi khác nhau của một bữa tiệc, trước khi họ gặp nhau ở đoạn cuối video. Mặc dù gặt hái những thành công rực rỡ về mặt thương mại, bài hát chưa từng được biểu diễn trực tiếp bởi cả hai nghệ sĩ cùng nhau, mặc dù Iglesias từng trình diễn nó một vài lần trong các chuyến lưu diễn lưu diễn của anh. Ngoài ra, "Could I Have This Kiss Forever" cũng xuất hiện trong album tổng hợp của nam ca sĩ, Greatest Hits (2008).

Bối cảnh và phát hành

Houston và Iglesias thực ra chưa từng gặp mặt trực tiếp trong quá trình thu âm lần đầu tiên, vì họ thu âm bài hát ở hai phòng thu tách biệt;[1] Houston thu âm tại Hamburg, Đức và Iglesias thu âm tại Los Angeles, California. Hai người cuối cùng cũng gặp nhau trong phòng thu khi nó được thu âm lại để phát hành làm đĩa đơn bởi Metrophonic (nhóm sản xuất đứng sau thành công của những đĩa đơn trước của Iglesias, "Bailamos" và "Rhythm Divine"), và cho ra một phiên bản mid-tempo mới. Phiên bản mới được phát hành bởi hãng đĩa của Houston như là đĩa đơn đầu tiên ở Hoa Kỳ (thứ hai ở Vương quốc Anh) trích từ album tổng hợp đầu tiên của Houston, Whitney: The Greatest Hits (2000). Đối với Iglesias, bài hát được phát hành như là đĩa đơn thứ tư trích từ Enrique. Sau đó, "Could I Have This Kiss Forever" còn nằm trong album tổng hợp của anh, Greatest Hits, phát hành năm 2008.

"Tôi và Clive lúc đó đang bàn luận với nhau về nó vì tôi đã nghe bản thu nháp và rất thích nó... Và ông nói: "Tại sao anh không thu âm bài hát này với Whitney?". Vậy là chúng tôi cùng nhau thu âm, và điều này thật thú vị. Clive rất vui khi Whitney hát chung với tôi - Tôi thậm chí còn không phải là một nghệ sĩ của hãng Arista.", Iglesias giải thích.[2]

Tiếp nhận

Billboard viết rằng: "Từ đầu, việc song ca giữa ngôi sao evergreen pop/R&B Houston và hiện tượng nhạc Latin Iglesias đầy cảm xúc là một sự kết hợp kì lạ, đi xuyên qua phiên bản mid-tempo Tây Ban Nha đầy tiếng ghi-ta, phổ biến với tất cả mọi người và rõ ràng đã có phép màu xảy ra. Iglesias, dĩ nhiên, ở ngay tại nhà, hát rất tự nhiên và quyến rũ, trong khi phần trình diễn của Houston lại được giới hạn để miêu tả hoàn hảo một khoảnh khắc lãng mạn chỉ dành riêng cho rượu sâm-banh và nhảy múa."[3] J. D. Considine của tờ The Baltimore Sun cảm thấy "Could I Have This Kiss Forever" là bài hát mà Whitney "rất cố gằng để bộc lộ cảm xúc cùng Enrique Iglesias".[4] LA Weekly trong khi nhận xét về Whitney: The Greatest Hits đã bình luận rằng: "Iglesias thở dài theo từng câu hát, cố gắng để bộc lộ cảm xúc nhẹ nhàng thay vì ầm lên".[5] Jim Farber của tờ New York Daily News nhận xét rằng bài hát "tạo nên một cách dùng tiêu cực của cơn sốt Latin đang tràn qua".[6] Digital Spy khi đang đánh giá về album Greatest Hits của Iglesias đã viết rằng "Iglesias đã hát thực sự kinh khủng" và bài hát là "sai lầm tồi tệ nhất".[7]

Vào năm 2012, bài hát được xếp ở vị trí số một trong danh sách "10 bài hát hay nhất của Whitney từng bị những đài phát thanh bỏ qua" của Idolator vì "ca khúc mid-tempo chậm này tràn ngập xúc cảm, nhờ Iglesias và bản phối lại bị-giới-hạn-nhưng-hiệu-quả của đội ngũ sản xuất Metro.[8]

Video ca nhạc

Video ca nhạc cho "Could I Have This Kiss Forever" được dạo diễn bởi Francis Lawrence.[9] Entertainment Tonight ra mắt video trên toàn cầu vào ngày 22 tháng 6 năm 2000.

Diễn biến trên các bảng xếp hạng

"Could I Have This Kiss Forever" đã gặt hái những thành công đáng kể trên toàn cầu, đạt vị trí số một ở Hà Lan và Thụy Sĩ. Bài hát cũng đồng thời lọt vào top 10 tại nhiều quốc gia khác, và nhận được chứng nhận Vàng ở Úc, Đức và Thụy Sĩ. Tuy vậy, nó chỉ gặt hái những thành công tương đối ở Hoa Kỳ, đạt vị trí thứ 52 trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Đây cũng là bản hit cuối cùng của Houston nằm trong top 10 ở Đức.[10] Tại Phần Lan, bài hát nằm trong bảng xếp hạng trong hai tuần, đạt vị trí cao nhất ở vị trí thứ 17.[11] Tại Thụy Điển, bài hát đạt vị trí thứ hai và nằm trong bảng xếp hạng trong 19 tuần.[12] Nó cũng được chứng nhận đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Thụy Điển (GLF). Tại Ireland, bài hát đạt hạng tám và nằm trong bảng xếp hạng trong bảy tuần. Tại Áo, bài hát xếp thứ 8 và có 20 tuần xuất hiện trên bảng xếp hạng.[12] Tính đến năm 2012, "Could I Have This Kiss Forever" đã bán được 140.000 bản ở Vương quốc Anh.[13]

Thứ tự bài hát và định dạng

Đĩa đơn CD[14]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
3."Could I Have This Kiss Forever" (đoạn hook)0:10
Đĩa đơn maxi tại Úc[15]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."I'm Your Baby Tonight" (Dronez Mix)5:03
3."I'm Every Woman" (Clivillés & Cole Mix)4:31
4."Queen Of The Night" (CJ Mackintosh Mix)5:19
Đĩa đơn maxi tại Canada[16]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Radio Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
3."Love Will Save The Day" (Jellybean & David Morales 1987 Classic Underground Mix)7:30
Đĩa đơn CD tại châu Âu[17]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
Đĩa đơn maxi tại châu Âu[18]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
3."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Mix)4:04
4."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Remix) (chỉnh sửa)3:38
5."If I Told You That" (Johnny Douglas Mix)4:48
6."I'm Every Woman" (Clivilles & Cole Mix)4:31
Đĩa than[19]
STTNhan đềThời lượng
1."Could I Have This Kiss Forever" (Metro Mix)3:55
2."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Mix) (chỉnh sửa)3:38
3."Could I Have This Kiss Forever" (bản gốc)4:21
4."Could I Have This Kiss Forever" (Tin Tin Out Mix)4:02
5."If I Told You That" (Johnny Douglas Mix)4:48

Xếp hạng

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[59] Vàng 35.000^
Bỉ (BEA)[60] Vàng 25.000*
Pháp (SNEP)[61] Bạc 125.000*
Đức (BVMI)[62] Vàng 250.000^
New Zealand (RMNZ)[63] Vàng 5.000*
Thụy Điển (GLF)[64] Bạch kim 30.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[65] Vàng 25.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo

  1. ^ Raquel Cepeda (1 tháng 12 năm 1999). “Whitney Phones It In For Enrique Duet, Remix Of New Single”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  2. ^ Tom Singlair (22 tháng 10 năm 1999). “Hear And Now: Iglesias joins Houston”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  3. ^ “Billboard Singles Reviews”. classicwhitney.com. Truy cập 9 tháng 11 năm 2014.
  4. ^ J. D. Considine (25 tháng 5 năm 2000). “Whitney Houston The Greatest Hits”. The Baltimore Sun. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  5. ^ Ernest Hardy (28 tháng 6 năm 2000). “Saving It”. LA Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  6. ^ Farber, Jim (16 tháng 5 năm 2000). “Whitney Goes Half-Wild: Latest album set is 1 part bad ballads, and 1 part boogie bliss”. New York Daily News. Daily News, L.P. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  7. ^ David Balls. “Enrique Iglesias: 'Greatest Hits'. Digital Spy. Truy cập 3 tháng 11 năm 2008.
  8. ^ “Whitney Houston's 10 Best Songs That Radio Forgot”. idolator.com. Truy cập 21 tháng 2 năm 2012.[liên kết hỏng]
  9. ^ “Whitney Houston Celebrates 15-year Career With Greatest Hits Collections”. Jet Magazine: 58. 22 tháng 6 năm 2000. Truy cập 31 tháng 12 năm 2013.
  10. ^ “Single-Chartverfolgung”. musicline.de. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2012. Truy cập 2 tháng 10 năm 2012.
  11. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias: Could I Have This Kiss Forever”. ifpi.fi. Truy cập 10 tháng 1 năm 2010.
  12. ^ a b “WHITNEY HOUSTON & ENRIQUE IGLESIAS - COULD I HAVE THIS KISS FOREVER (SONG)”. swedischarts.com. Truy cập 10 tháng 1 năm 2010.
  13. ^ “Whitney Houston | Official Top 20”. MTV UK. MTV Networks. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2013.
  14. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Promo CD Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  15. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Australian Maxi Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  16. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Canadian Maxi Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  17. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (CD Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  18. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (European Maxi Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  19. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever (Vinyl Single)”. Discogs. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2012.
  20. ^ "Australian-charts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  21. ^ "Austriancharts.at – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  22. ^ "Ultratop.be – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  23. ^ "Ultratop.be – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  24. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  25. ^ “Item Display - RPM - Library and Archives Canada”. Collectionscanada.gc.ca. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  26. ^ “Item Display - RPM - Library and Archives Canada”. Collectionscanada.gc.ca. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  27. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  28. ^ "Whitney Houston & Enrique Iglesias: Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  29. ^ "Lescharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  30. ^ “Whitney Houston & Enrique Iglesias - Could I Have This Kiss Forever” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  31. ^ "Chart Track: Week 40, 2000" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  32. ^ "Italiancharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  33. ^ "Nederlandse Top 40 – week 40, 2000" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40 Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  34. ^ "Dutchcharts.nl – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  35. ^ "Charts.nz – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  36. ^ "Norwegiancharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  37. ^ Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản thứ 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  38. ^ "Swedishcharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  39. ^ "Swisscharts.com – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  40. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  41. ^ "Whitney Houston Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  42. ^ "Whitney Houston Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  43. ^ "Whitney Houston Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  44. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Singles 2000”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  45. ^ “Jaaroverzichten 2000”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  46. ^ “Rapports Annuels 2000”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  47. ^ “Die TOP Charts der deutschen Hitlisten”. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  48. ^ “Eurochart Hot 100 Singles 2000” (PDF). Music & Media. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  49. ^ “Classement Singles - année 2000” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  50. ^ “Top 100 Single-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  51. ^ “I singoli più venduti del 2000” (bằng tiếng Ý). Hit Parade Italia. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  52. ^ “Tokyo Hot 100” (bằng tiếng Nhật). j-wave. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.
  53. ^ “Jaarlijsten 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Stichting Nederlandse Top 40. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  54. ^ “Jaaroverzichten 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  55. ^ “Årslista Singlar – År 2000” (bằng tiếng Thụy Điển). SNEP. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  56. ^ “Swiss Year-End Charts 2000”. Swiss Singles Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.
  57. ^ “Best Sellers of 2000: Singles Top 100”. Music Week. London, England: United Business Media: 25. 20 tháng 1 năm 2001.
  58. ^ “2000: The Year in Music” (PDF). Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.
  59. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2000 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  60. ^ “Ultratop − Goud en Platina – singles 2000” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien.
  61. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Pháp – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have This Kiss Forever” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique.
  62. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Whitney Houston & Enrique Iglesias; 'Could I Have This Kiss Forever')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  63. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Whitney Houston & Enrique Iglesias – Could I Have The Kiss Forever” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ.
  64. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2000” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  65. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Could I Have This Kiss Forever')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.

Liên kết ngoài

Read other articles:

Ini adalah nama Korea; marganya adalah Lee. Lee Jin-hyukNama asal이진혁LahirLee Sung-joon8 Juni 1996 (umur 27)Seongbuk-gu, Seoul, Korea SelatanNama lainWeiPekerjaanPenyanyi, Komposer, Penulis laguKarier musikGenreK-popInstrumenVokalTahun aktif2015–sekarangLabelTOP MediaArtis terkaitUP10TION Nama KoreaHangul이진혁 Hanja李鎭赫 Lee Jin-hyuk (bahasa Korea: 이진혁, lahir 8 Juni 1996), adalah penyanyi asal Korea Selatan. Ia memulai debut sebagai anggota dari grup vo...

 

Андрій Олексійович Осіпов Народився 11 квітня 1977(1977-04-11) (46 років)Зеленоборськ, Совєтський район, Ханти-Мансійський автономний округ — Югра, Тюменська область, РРФСР, СРСРКраїна  СРСР УкраїнаДіяльність Голова Правління Одеської кіностудіїВідомий завдяки Топ-менедж...

 

American basketball player (born 1988) Miles PlumleePlumlee with Duke in February 2011Personal informationBorn (1988-09-01) September 1, 1988 (age 35)Fort Wayne, Indiana, U.S.Listed height6 ft 11 in (2.11 m)Listed weight249 lb (113 kg)Career informationHigh schoolChrist School(Arden, North Carolina)CollegeDuke (2008–2012)NBA draft2012: 1st round, 26th overall pickSelected by the Indiana PacersPlaying career2012–2020PositionCenter / power forwardNumber13, 22, ...

1992 film by Richard Pearce Leap of FaithOriginal theatrical posterDirected byRichard PearceWritten byJanus CerconeProduced byMichael Manheim David V. PickerStarring Steve Martin Debra Winger Lolita Davidovich Liam Neeson Lukas Haas CinematographyMatthew F. LeonettiEdited byJohn F. Burnett Mark Warner Don ZimmermanMusic byCliff EidelmanBilly StrausDistributed byParamount PicturesRelease date December 18, 1992 (1992-12-18) Running time108 minutesCountryUnited StatesLanguageEngli...

 

You can help expand this article with text translated from the corresponding article in Chinese. (October 2011) Click [show] for important translation instructions. Machine translation, like DeepL or Google Translate, is a useful starting point for translations, but translators must revise errors as necessary and confirm that the translation is accurate, rather than simply copy-pasting machine-translated text into the English Wikipedia. Do not translate text that appears unreliable or lo...

 

Swiss jurist and legal practitioner Jean Pictet in 1937 Jean Simon Pictet (2 September 1914, Geneva – 30 March 2002, Meyrin) was a Swiss citizen, jurist, legal practitioner working in international humanitarian law. First as a secretary-jurist, and then as a senior executive and Vice-President of the International Committee of the Red Cross (ICRC), Pictet was instrumental in drafting the 1949 Geneva Conventions for the protection of victims of war, their Commentaries, and negotiating the 19...

For the NV Reederij Amsterdam steamship, see SS Amstelveen. Municipality in North Holland, NetherlandsAmstelveenMunicipalityApartment buildings in Amstelveen FlagCoat of armsLocation in North HollandCoordinates: 52°18′N 4°51′E / 52.300°N 4.850°E / 52.300; 4.850CountryNetherlandsProvinceNorth HollandRegionAmsterdam metropolitan areaGovernment • BodyMunicipal council • MayorTjapko Poppens (VVD)Area[1] • Total44.08 ...

 

Austrian conductor Manfred Honeck in 2013 Manfred Honeck (born 17 September 1958, in Nenzing) is an Austrian conductor. He is currently the music director of the Pittsburgh Symphony Orchestra.[1][2] Early life Honeck was born in Nenzing, Austria, near the border with Switzerland and Liechtenstein, one of nine children of Otto and Frieda Honeck.[1][2] One of his brothers is the Vienna Philharmonic concertmaster Rainer Honeck. Beginning as a violinist, Honeck rec...

 

Serbian handball club RK JugovićFull nameRukometni Klub JugovićNickname(s)Kaćki tići (The Kać's Fledglings)Founded1956; 67 years ago (1956)ArenaHram Sport Hall, KaćCapacity2,000Head coachPredrag TopićLeagueArkus LigaClub colours    Home Away Website Official site RK Jugović (Serbian Cyrillic: РК Југовић) is a Serbian handball club based in Kać, Novi Sad. They compete in the top tier Serbian handball league, the Arkus league. Kaćcla...

Listing of historic properties of Phoenix, Arizona, US PlacePhoenix Historic Property RegisterFront view of the J.W. Walker Building (built 1920)Location in Maricopa County and the state of ArizonaPart of a series of theCities, towns and CDPs in Arizona with lists and images of historic properties, forts, cemeteries or historic districtsFlag of Arizona Lists of structures, etc. Adamsville Agua Caliente Ash Fork Avondale Benson Bisbee Black Canyon City Bouse Brigham City Buckeye Cameron Camp V...

 

Electrical engineering plot In electrical engineering, a shmoo plot is a graphical display of the response of a component or system varying over a range of conditions or inputs. Origin The origin of the shmoo plot is unclear. It is referenced in a 1966 IEEE paper.[1] Another early reference is in manuals for IBM 2365 Processor Storage.[2] The invention of the shmoo plot is sometimes credited to VLSI Hall Of Fame inductee Robert Huston (1941–2006).[3] But this is unli...

 

Hofje in Haarlem, Netherlands Decoration next to the door of the current hofje, above a picture from when it was above the door in the door in the Lange Molenstraat. That location also had a door on the Lange Herenstraat, Haarlem 1st location2nd locationToday's locationclass=notpageimage| The Hofje today is near the Cathedral of Saint Bavo. The former locations were near the St. Bavochurch and the Haarlem railway station. The Hofje van Codde en Beresteyn is a hofje in Haarlem, Netherlands. Th...

Unofficial issue that is not legal tender For a system of money depicted in works of fiction, see Fictional currency. Fantasy Euro note representing Brexit A fantasy issue is an unofficial issue that appears to be money (coin or paper note) but is privately made and is not legal tender nor intended for payment. It is also not considered counterfeit as it does not attempt to replicate actual currency. Fantasy (or novelty) issues can be made to honor a person or event, for advertising purposes,...

 

This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) A major contributor to this article appears to have a close connection with its subject. It may require cleanup to comply with Wikipedia's content policies, particularly neutral point of view. Please discuss further on the talk page. (October 2013) (Learn how and when to remove this template message) This article may rely excessively on sour...

 

Public housing estate in Fanling, Hong Kong Cheung Wah EstateCheung Wah EstateGeneral informationLocation38 San Wan Road, FanlingNew Territories, Hong KongCoordinates22°29′35″N 114°08′29″E / 22.493°N 114.14146°E / 22.493; 114.14146StatusCompletedCategoryPublic rental housingPopulation13,109[1] (2016)No. of blocks10[2]No. of units2,471[2]ConstructionConstructed1984; 39 years ago (1984)AuthorityHong Kong Housing ...

The Swash Channel Wreck is the remains of an early 17th-century armed merchantman possibly of Dutch origin wrecked outside of Poole Harbour. The vessel was approximately 40 m long and has been predicted to be around 600 tonnes. The ship was probably involved with the beginning of internationalization.[1] The Swashclass=notpageimage| The Location of the Swash Channel Wreck The archaeological evidence, including the small number of guns, the position of the galley, wooden sheathing...

 

Bloemfontein (1882) Cape Town (1899) South Africa (1910) National Sports Council South African heraldry dates back to the 1650s, inheriting European (especially Dutch and British) heraldic traditions. Arms are borne by individuals, official bodies, local authorities, military units, and by a wide variety of organisations. South Africa has had its own heraldic authority since 1963, to provide armigers with legal protection, and to promote high standards of armorial practice. Origins and histor...

 

1993 live album by StrawbsGreatest Hits LiveLive album by StrawbsReleased1993 (1993)Recorded1990 (1990)GenreProgressive rockLabelRoad Goes on ForeverStrawbs chronology A Choice Selection of Strawbs(1992) Greatest Hits Live(1993) Heartbreak Hill(1995) Greatest Hits Live is a live album by English band Strawbs. Track listing Cut Like a Diamond (Dave Cousins, Chas Cronk) Something for Nothing (Cousins, Cronk) The Hangman and the Papist (Cousins) Ringing Down the Years (Cousins)...

American Late-Stage Venture Firm This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Meritech Capital Partners – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (November 2014) (Learn how and when to remove this template message) Meritech Capital PartnersTypePrivateIndustryLate-Stage Venture FirmFounded1999FoundersM...

 

この記事は検証可能な参考文献や出典が全く示されていないか、不十分です。出典を追加して記事の信頼性向上にご協力ください。(このテンプレートの使い方)出典検索?: 静岡県道74号山脇大谷線 – ニュース · 書籍 · スカラー · CiNii · J-STAGE · NDL · dlib.jp · ジャパンサーチ · TWL(2018年10月) 主要地方道 静岡県道74号 山脇大...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!