Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba là một loạt các cuộc xung đột và chiến tranh giữa các lực lượng cộng sản của Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc từ năm 1975 tới năm 1991. Lào và Thái Lan cũng tham gia trong một số xung đột vũ trang. Cuộc chiến tranh này diễn ra sau khi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai kết thúc với sự kiện Sài Gòn sụp đổ. Việc chấm dứt hoàn toàn hoạt động quân sự của Mỹ được xem là sự loại bỏ một kẻ thù chung của tất cả các lực lượng cộng sản trong khu vực.[3]
Từ những năm 1960, chia rẽ Trung Quốc và Liên bang Xô viết ngày càng nghiêm trọng, các chế độ cộng sản của Campuchia, Việt Nam và Lào cũng chịu ảnh hưởng trong quan hệ với hai phe đối lập này. Sự thù địch sau đó được thúc đẩy bởi những mối hận thù đã có từ nhiều thế kỷ trước giữa Việt Nam với Campuchia, và đặc biệt là giữa Việt Nam với Trung Quốc.[4] Các lực lượng cộng sản tranh giành ảnh hưởng tại Đông Dương sau khi các chế độ phi cộng sản Cộng hòa Khmer, Việt Nam Cộng hòa, và Vương quốc Lào sụp đổ.
Năm 1975, các cuộc giao chiến quân sự ban đầu nảy sinh giữa Việt Nam và chế độ Khmer Đỏ của Campuchia, dẫn đến việc Việt Nam tấn công và chiếm đóng Campuchia trong hơn một thập kỷ. Sự thúc đẩy tiêu diệt hoàn toàn tàn quân Khmer Đỏ khiến Việt Nam không thể tránh khỏi cuộc xung đột vũ trang với Thái Lan.[5][6]
Trung Quốc hầu như không có bất kỳ phản ứng nào đối với hoạt động của Việt Nam trong việc đàn áp lực lượng nổi dậy chống cộng ở Lào, tuy nhiên họ phản đối mạnh mẽ cuộc "xâm lược" của Việt Nam vào Campuchia. Các lực lượng vũ trang Trung Quốc đã phát động một chiến dịch trừng phạt vào tháng 2 năm 1979 và tấn công các tỉnh phía bắc của Việt Nam, quyết tâm kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô/Việt Nam.[7][8]
Để giành quyền kiểm soát hoàn toàn Campuchia, Quân đội Nhân dân Việt Nam cần phải đánh bật các lãnh đạo và đơn vị còn lại của Khmer Đỏ, những người đã rút lui đến các vùng xa xôi dọc biên giới Thái Lan - Campuchia.[9] Tình hình leo thang khi chủ quyền lãnh thổ của Thái Lan bị xâm phạm nhiều lần. Giao chiến nặng nề với nhiều thương vong do các cuộc đối đầu trực tiếp giữa quân đội Việt Nam và Thái Lan. Thái Lan tăng cường quân đội, mua thiết bị mới và xây dựng mặt trận ngoại giao chống lại Việt Nam.[3] Sau Hội nghị Hòa bình Paris năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Cuối cùng, các cuộc giao chiến với quân đội chính quy trong khu vực đã kết thúc sau khi Hiệp định Hòa bình Paris 1991 ký kết.[10][11]
Sau cái chết của Joseph Stalin năm 1953,[12]Nikita Khrushchev trở thành lãnh đạo của Liên Xô. Việc ông lên án Stalin và các cuộc thanh trừng của người tiền nhiệm, giới thiệu các chính sách cộng sản ôn hòa hơn và chính sách đối ngoại cùng tồn tại hòa bình với phương Tây đã khiến lãnh đạo Trung Quốc tức giận. Mao Trạch Đông đã theo một tư tưởng Stalin nghiêm khắc, khăng khăng tôn sùng cá nhân như một biện pháp thống nhất của quốc gia. Những bất đồng về hỗ trợ kỹ thuật để phát triển vũ khí hạt nhân và các chính sách kinh tế cơ bản của Trung Quốc càng khiến Liên Xô và Trung Quốc xa lánh như là lực lượng đối lập của phong trào cộng sản trên toàn cầu. Khi các phong trào phi thực dân hóa bắt đầu tăng tốc vào những năm 1960 và nhiều quốc gia như vậy rơi vào bạo lực, cả hai cường quốc cộng sản đã tranh giành quyền kiểm soát chính trị của các quốc gia khác nhau hoặc các phe phái cạnh tranh trong các cuộc chiến nội chiến đang diễn ra.[13]
Diễn biến chính trị trong chiến tranh Việt Nam
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chọn liên minh với Liên Xô, đã can thiệp vũ trang vào các nước láng giềng Lào và Campuchia trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai với bản chất quốc tế của cách mạng cộng sản, trong đó "Đông Dương là một đơn vị chiến lược duy nhất, một chiến trường". Vai trò then chốt của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong việc mang lại điều này.[14] Tuy nhiên, chủ nghĩa cộng sản quốc tế này bị cản trở bởi thực tế lịch sử khu vực phức tạp, chẳng hạn như "sự đối đầu xuyên suốt lịch sử giữa người Trung Quốc và người Việt và mặt khác giữa người Việt Nam và người Khmer".[15] Việt Nam can thiệp vào cuộc nội chiến giữa Quân đội Hoàng gia Lào và Cộng sản Pathet Lào cho đến khi thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và "Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác" được ký vào tháng 7 năm 1977. Quân đội đồn trú được bảo đảm và duy trì các tuyến đường tiếp tế và chiến lược quan trọng (đường mòn Hồ Chí Minh).[14] Từ năm 1958, quân đội chiến đấu miền Bắc và miền Nam Việt Nam cũng bắt đầu xâm nhập vào các khu rừng hẻo lánh ở miền đông Campuchia, nơi họ tiếp tục xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh. Những người nổi dậy cộng sản Campuchia đã tham gia xây dựng đường mòn chiến lược này vào cuối những năm 1960. Mặc dù sự hợp tác đã diễn ra, những người cộng sản Khmer đã liên minh với Trung Quốc.[16][17]
Sau sự sụp đổ của Sài Gòn và Phnom Penh vào tháng 4 và tháng 5 năm 1975, các đảng Cộng Sản lên nắm quyền ở các nước Đông Dương. Các cuộc đụng độ biên giới vũ trang giữa Campuchia và Việt Nam đã sớm bùng lên và leo thang khi lực lượng Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, đột kích các ngôi làng và giết chết hàng trăm thường dân. Việt Nam phản công và vào tháng 12 năm 1978, quân đội Việt Nam xâm chiếm Campuchia, đến Phnom Penh vào tháng 1 năm 1979 và đến biên giới Thái Lan vào mùa xuân năm 1979.[18][19]
Các quốc gia như Trung Quốc, Hoa Kỳ và phần lớn cộng đồng quốc tế phản đối chiến dịch của Việt Nam, Khmer Đỏ còn lại đã tìm cách định cư lâu dài ở khu vực biên giới Thái Lan - Campuchia. Trong một cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, bảy thành viên không liên kết nhau đã soạn thảo một nghị quyết về việc ngừng bắn và rút quân Việt Nam song đã thất bại do sự phản đối của Liên Xô và Tiệp Khắc. Thái Lan dung túng cho sự hiện diện của Khmer Đỏ trên đất của họ khi họ giúp ngăn chặn du kích Việt Nam và cộng sản Thái Lan trong nội địa. Trong suốt thập kỷ tiếp theo, Khmer Đỏ đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể từ những kẻ thù của Việt Nam và phục vụ như một công cụ thương lượng trong chính trị thực dụng của Thái Lan, Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ.[10][20]
Việt Nam đột kích ở Thái Lan
Các lực lượng Khmer Đỏ hoạt động từ bên trong lãnh thổ Thái Lan tấn công chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia thân Việt Nam. Tương tự, các lực lượng Việt Nam thường xuyên tấn công các căn cứ của Khmer Đỏ bên kia biên giới Thái Lan. Cuối cùng, quân đội chính quy của Thái Lan và Việt Nam đã đụng độ nhau trong nhiều năm sau đó.[21]
Trung Quốc tấn công Việt Nam để đáp trả sự chiếm đóng của người Campuchia ở Campuchia, tiến vào miền bắc Việt Nam và chiếm được một số thành phố gần biên giới. Vào ngày 6 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố rằng nhiệm vụ trừng phạt của họ đã thành công và rút khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chiến thắng. Việc các lực lượng Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia trong một thập kỷ nữa ngụ ý rằng chiến dịch của Trung Quốc là một thất bại chiến lược. Mặt khác, cuộc xung đột đã chứng minh rằng Trung Quốc đã thành công trong việc ngăn chặn sự hỗ trợ hiệu quả của Liên Xô cho đồng minh Việt Nam.[22][23]
Khi các lực lượng quân sự chủ lực Việt Nam vẫn đang tham chiến tại Campuchia, Quân đội Việt Nam và Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tham gia vào một loạt các tranh chấp biên giới kéo dài hàng thập kỷ và kéo dài cho đến năm 1990. Những cuộc giao chiến chủ yếu ở địa phương này thường diễn ra trong các cuộc đình chiến kéo dài, vì không bên nào đạt được lợi ích quân sự lâu dài. Đến cuối những năm 1980, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu áp dụng chính sách Đổi mới và đặc biệt xem xét lại chính sách đối với Trung Quốc. Mối quan hệ thù địch kéo dài với Trung Quốc gây bất lợi cho cải cách kinh tế, an ninh quốc gia. Một số nhượng bộ chính trị đã mở đường cho quá trình bình thường hóa năm 1991.[24]
^Le Hong Hiep (ngày 26 tháng 6 năm 2013). “Vietnam's Domestic–Foreign Policy Nexus: Doi Moi, Foreign Policy Reform, and Sino Vietnamese Normalization”. Asian Politics & Policy. 5 (3): 387–406. doi:10.1111/aspp.12035.
Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!