Biến loạn Fujiwara no Hirotsugu

Fujiwara no Hirotsugu trong bản vẽ của Kikuchi Yōsai

Biến loạn Fujiwara no Hirotsugu (藤原広嗣の乱 Fujiwara no Hirotsugu no ran?) là một cuộc nổi loạn vào thời kỳ Nara do Fujiwara no Hirotsugu (藤原広嗣?) lãnh chúa các đảo của Nhật Bản phát động vào năm 740. Nguyên nhân là do Hirotsugu không hài lòng với các cường quốc chính trị, đã cho xây dựng một đội quân ở Dazaifu, Kyushu nhưng sau đã bị lực lượng triều đình đánh bại.

Ghi nhận lịch sử

Biến loạn Fujiwara no Hirotsugu được ghi chép lại một cách sơ sài về hầu hết những gì được biết về nó, bao gồm cả ngày chính xác bắt đầu cuộc biến loạn, bắt nguồn từ Shoku Nihongi.[1] (Shoku Nihongi được hoàn thành vào năm 797, đây là một trong Rikkokushi ghi chép sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 697 đến 791. Đây là một tài liệu có giá trị cho các nhà sử học, mặc dù không phải tất cả ngày tháng trong đó là chính xác).[2]

Bối cảnh

Gia tộc Fujiwara đã ảnh hưởng đến chính trị Nhật Bản kể từ khi người sáng lập, Nakatomi no Kamatari,tiến hành đảo chính vào năm 645, gia tộc Soga bị lật đổ và ngay sau đó cuộc cải cách Taika được tiến hành, nhằm củng cố quyền lực quốc gia.[3] Vào những năm 730, cơ quan cố vấn được gọi là Thái chính quan được lập ra,đứng đầu là bốn người con trai của Fujiwara no Fuhito: Fujiwara no Muchimaro,giữ chức Hữu đại thần từ năm 729; Fujiwara no Fusasaki, cố vấn từ năm 729; Fujiwara no UmakaiFujiwara no Maro, trở thành cố vấn vào năm 731. Họ đã nắm giữ bốn trong số mười vị trí của Thái chính quan, được đặt dưới thời Thiên hoàng và phụ trách tất cả các công việc thế tục.[nb 1][4][4][4] Ngoài ra, gia tộc Fujiwara còn có mối quan hệ mật thiết với Thiên hoàng vì thân mẫu của Thiên hoàng ShōmuHoàng hậu Kōmyō, là người của gia tộc Fujiwara và là con gái của Fujiwara no Fuhito.[5]

Năm 735, một trận dịch bệnh đậu mùa, đã cướp đi khoảng một phần ba dân số Nhật Bản, đã bùng phát ở Kyushu và sau đó lan rộng về phía đông bắc.[6] Trong khi hầu hết các nạn nhân của trận dịch bệnh này đến từ cộng đồng sản xuất ở miền tây và miền trung Nhật Bản, đến năm 737, dịch bệnh đã đến thủ đô tại Heijō-kyō (Nara) gây ra nhiều cái chết của các quý tộc.[1] Thiên hoàng Shōmu may mắn sống sót qua trận dịch bệnh, nhưng đến tháng 8 năm 737, mười quan chức từ phẩm vị tứ phẩm trở lên đều qua đời, trong đó có cả Fujiwara no Fuhito. Cái chết của những người cầm quyền và người đứng đầu của bốn nhánh Fujiwara đã làm suy yếu đáng kể ảnh hưởng của gia tộc Fujiwara.[1][4][5][7][8][9][10][11][12]

Kibi -no-Makibi

Những sự kiện sau đó đã mang lại sự thay đổi quyền lực đối với các quý tộc có mối quan hệ mật thiết với Thiên hoàng và tránh xa các gia tộc không thuộc Hoàng thất như gia tộc Fujiwara. Năm 737 Hoàng tử Suzuka, anh trai của Hoàng tử Nagaya, [nb 2] được bổ nhiệm làm Thái chính đại thần, vị trí cao nhất trong hàng ngũ văn võ bá quan của Triều đình. Vào đầu năm sau, [d 1] Tachibana no Moroe, anh cùng cha khác mẹ của Hoàng hậu Kōmyō, đã được phong làm Hữu Đại thần,trước đây đã được nắm giữ bởi Manyimaro cho đến khi qua đời[13][14] Người duy nhất của gia tộc Fujiwara trong triều vào thời điểm đó là con trai của Manyimaro, Fujiwara no Toyonari, có phẩm trật khá thấp. Ngoài ra, tất cả các gia tộc chống lại Fujiwara no Fuhito như Ōtomo, Saeki hay Agata Inukai đều có những người ủng hộ Moroe. Không giống như dưới thời quản chế của Fujiwara no Fuhito, Thiên hoàng không bị một phe phái mạnh nào phản đối nữa vì những người giữ chức vụ quan trọng mới xuất thân từ nhiều gia tộc khác nhau.[13]

Genbou

Kibi no MakibiGenbō được ghi lại trong các bài cáo quan trọng, mặc dù không xuất thân trong một gia tộc uy tín.[13] Cả hai đã sống Trung Quốc vào thời nhà Đường trong vòng 17 năm và trở về Nhật Bản vào năm 735.[5][15] Makibi, người đã mang một số văn kiện Nho giáo quan trọng đến Nhật Bản đã trở thành cố vấn cho Thiên hoàng về những phát triển mới nhất của lục địa về luật pháp, chiến tranh và âm nhạc. Ông được thăng cấp bậc cao hơn và trở thành quan thụ giáo (daigaku no suke) của triều đình. Vào năm 736, tháng thứ 2 (tháng 3 hay tháng 4), nhà sư Genbō, người đã trở lại với hơn 5000 cuộn sách cùng những quan điểm riêng về Phật giáo đã được triều đình ban tặng một mảnh đất rộng lớn, tám người hầu và một chiếc áo cà sa màu tím.[5] Khi bệnh dịch xảy ra vào năm 737, ông được yêu cầu thực hiện các nghi thức chữa bệnh cho gia đình hoàng thất; và các nghi thức của ông được cho là thực sự chữa lành bệnh cho mẹ của Thiên hoàng,Hoàng Thái hậu Fujiwara no Miyako. [nb 3] Do đó, sức ảnh hưởng của ông tại triều đình ngày càng lớn và vào năm 737, tháng 8 (hay tháng 9) Genbō trở thành linh mục trưởng của Chùa Kofuku-ji, người đứng đầu chi nhánh phía bắc của phái Hossō của Phật giáo, và ông đã đạt được cấp bâc cao nhất dành cho giới tu hành là sōjō.[1][4][5][13][18][19][20][21]

Trong khi đó,một số thành viên gia tộc Fujiwara đã bị lưu đày đến các tỉnh xa.[4][4][9] Fujiwara no Hirotsugu, con trai lớn nhất của Umakai và cháu trai của Hoàng hậu Kōmyō trở thành thủ lĩnh của nhánh Shikike của gia tộc Fujiwara.[3][4] Hermann Bohner đã mô tả ông ta như một "hiệp sĩ", rất tài năng trong chiến đấu, thi ca và cả khoa học, nhưng cũng là người dám tìm kẻ thù để tấn công và chấp nhận rủi ro.[5] Thấy ảnh hưởng của tộc Fujiwara suy yếu dần, Hirotsugu đã luận tội nhà sư Genbō và phản đối Makibi.[22] Tuy nhiên, Shōmu nói với các cố vấn của mình và Hirotsugu bị giáng chức thành thống đốc tỉnh Yamato,vị trí ông đã đảm nhận một năm trước đó, đến Kyushu, nơi ông trở thành phó thống đốc của Dazaifu vào năm 738.[3][10][10][21][23][24][25][26]

Biến loạn

Trong một văn thư gửi đến Thiên hoàng vào tháng 7 năm 740, [d 2] Hirotsugu tuyên bố rằng ông sẽ khiến Kibi no Makibi và linh mục Genbō phải chịu trách nhiệm về tham nhũng và sự bất mãn chung tại kinh đô. Ông chỉ ra "những thất bại của chính sách gần đây, mô tả những thảm họa đằng sau đó" và yêu cầu Thiên hoàng phải thải loại họ.[1] Bốn ngày sau khi triều đình nhận được văn thư của ông ta, [d 3] ông ta tuyên bố sẽ phát động cuộc biến loạn, không giống như những gì mà Iwai đã làm khoảng 200 năm trước,[1][20][23] vào thời điểm người dân ở Kyushu đang trải qua thời kỳ khó khăn sau dịch bệnh đậu mùa, nhiều năm hạn hán và mùa màng xấu. Chính phủ đã ứng phó với tình huống này bằng một dự án xây dựng đền thờ quy mô lớn nhằm mục đích làm nguôi giận các vị thần. Tuy nhiên,một gia đình nông dân không thể có thêm sưu dịch vì việc xây dựng đền thờ. Như vậy, Hirotsugu đã được ủng hộ bởi những người nông dân bất mãn, lãnh đạo quận địa phương và các thành viên của dân tộc Hayato ở miền nam Kyushu; ông cũng cố gắng đảm bảo sự hỗ trợ từ vương quốc Tân La. Tận dụng vị trí chính thức của mình tại Dazaifu, Hirotsugu sớm tập hợp một đội quân khoảng từ 10.000 đến 15.000 người [nb 4].[4][22]

Bản đồ cho thấy các sự kiện lớn của cuộc nổi loạn

Với lực lượng tập trung ở các tiêu điểm quan trọng của Dazaifu và Hirotsugu ở kinh đô, tình huống này đã gây ra một mối đe dọa nghiêm trọng cho chính quyền trung ương.[28] Thiên hoàng Shōmu đã lo lắng về sự can thiệp của Tân La, đã giao Ono no Azumabito làm tướng quân trong một đội quân đàn áp gồm 17.000 người từ miền đông và miền tây Nhật Bản, ngoại trừ Kyushu, quân đội hoàng gia lớn nhất vào thế kỷ thứ 8.[6][7] Những lính quân dịch đã được phái đi một năm trước vì dịch bệnh, phải mất một tháng sau họ mới có thể quay lại được.[22] Vào ngày 29 tháng 9 [d 4] chính phủ cử một đội quân trinh sát gồm 24 người Hayato bản địa.[1] Các lực lượng ở hai bên bao gồm cả bộ binhkỵ binh và nằm dưới sự chỉ huy của các quan chức địa phương. Theo William Wayne Farris, vào thế kỷ thứ 8 của Nhật Bản, những kỵ sĩ đóng vai trò quyết định đối với sức mạnh của một đội quân. Trước bất kỳ trận chiến nào, trong cuộc xung đột này, một phần lớn quân đội triều đình sẽ được tuyển mộ từ phía tây Honshu, nơi có nhiều cung thủ giỏi, mang lại cho họ một lợi thế quyết định so với Hirotsugu, người bị giới hạn ở Kyushu. Sau đó trong cuộc xung đột, một số kỵ sỹ của Hirotsugu sẽ đào thoát, làm tăng thêm lợi thế này.[1]

Để đảm bảo sự hỗ trợ, Azumabito đã được lệnh cầu nguyện tới vị thần chiến tranh Hachiman,.[24] Đây là một trong những cuộc khủng hoảng đầu tiên mà mọi người dùng đến Hachiman như một kami quyền lực.[10] Một sứ giả đã được gửi đến để làm lễ cúng tại Thần cung Ise và Thiên hoàng Shōmu đã ra lệnh đúc các bức tượng Quan âm,sau đã được sao chép và đưa đến tất cả các tỉnh.[23][23][28]

Để bao vây lực lượng triều đình, Hirotsugu chia quân đội của mình thành ba đơn vị; một đơn vị dưới sự chỉ huy của ông ta và còn lại là dưới sự chỉ huy của cấp dưới ông ta, Tsunade và Komaro. Họ cùng nhau tiến dọc theo các tuyến đường khác nhau đến phía bắc Kyushu, nơi eo biển Kanmon tách Kyushu khỏi đảo chính của Nhật Bản, Honshu. Trên đường đi, vào ngày 19 tháng 10, [d 5] Hirotsugu dừng lại tại quận Oka để "dựng trại, dựng nỏ, tăng tín hiệu và binh lính từ tỉnh [của Chikuzen ]".[6] Cuối cùng, ông đã đến pháo đài (chinsho) ở quận Miyako, tỉnh Buzen gần tuyến đường xâm lược dự kiến.[1] Nhưng kế hoạch tấn công có tổ chức của Hirotsugu đã bị thất bại khi một đội quân gồm vài nghìn người đã không xuất quân và một đơn vị khác đã bị trễ. Quân đội triều đình đã tiến công vào Kyushu, bắt giữ người và vũ khí từ ba trại tại Tomi, Itabitsu và Miyako ở tỉnh Buzen.[d 6][29] Trước đó, quân đội của triều đìhh đã tăng nhân sự vào ngày 16 tháng 10 [d 7] với hơn 4.000 người trong đó có 40 lính jōhei dưới quyền thẩm phán của quận Toyoura, tỉnh Nagato.[1] Vào ngày 20 tháng 10, [d 8] một số đồng minh của Hirotsugu đã đầu hàng và đổi phe: bốn quan chức quận đã đào thoát cùng với 500 kỵ sĩ và một công dân từ tỉnh Buzen đã giết chết một phiến quân. Sau đó, một quan chức từ một quận Buzen trở lại với nhiều đầu từ xác chết các phiến quân từ trận chiến.[1] Vào ngày 24 tháng 10, [d 9] một sắc lệnh đã được ban hành trong dân chúng và các quan chức của Kyushu, cố gắng hạ nhục Hirotsugu và hứa hẹn sẽ ban thưởng hậu hĩnh cho bất kỳ ai giết Hirotsugu. [nb 5]

Vào ngày 2 tháng 11, [d 10] đội quân còn lại của Hirotsugu, được cho là bao gồm 10.000 kỵ binh, đã gặp các lực lượng triều đình tại sông Itabitsu. Chiến đấu thất bại, quân đội của Hirotsugu đã bị đánh bại và tan rã.[1] Cố gắng đến Tân La bằng thuyền, Hirotsugu đã gặp một cơn bão, bị lực lượng triều đình bắt giữ dưới thời Abe no Kuromaro (倍) vào ngày 16 tháng 11 tại Chikanoshima thuộc quần đảo Gotō, tỉnh Hizen.[d 11][24][30][30] Một tuần sau, vào ngày 24 tháng 11, một vị tướng đã chặt đầu ông ta mà không cần có sự cho phép của Triều đình.[3][18][20]

Chuyến công du của Thiên hoàng Shōmu tới các tỉnh miền đông

Thiên hoàng Shōmu

Trong khi các cuộc diễn tập chiến đấu vẫn đang được tiến hành, vào tháng thứ 10, [d 12] Thiên hoàng Shōmu rời kinh đô Heijō-kyō (Nara) và du ngoạm đến phía đông qua Horikoshi [nb 6] (越 頓 宮; Tsuge; ngày 10, ngày 29: Ngày 22 tháng 11), Nabari (tháng 10, ngày 30: 23 tháng 11), Ao [nb 6] (保頓; Aoyama; ngày thứ 11 ngày 1: 24 tháng 11) đến Kawaguchi ở huyện Ichishi, tỉnh Ise (ngày nay thuộc Tsu, trước đây là một phần của Hakusan), nơi ông rút lui cùng với các quan cận thần của mình đến ly cung. Một trong những tướng lĩnh của ông được giao lại cai quản kinh đô.[2] Thiên hoàng Shōmu sợ những người ủng hộ gia tộc Fujiwara ở Nara và hy vọng sẽ dập tắt các cuộc nổi dậy ở các khu vực khác của đất nước với sự hiện diện của ông.[4][5][9][22] Sau bốn ngày du hành qua mưa lớn và bùn dày, họ đã đến Kawaguchi vào ngày 25 tháng 11 [d 13] Vài ngày sau, họ biết về vụ hành quyết của Hirotsugu và cuộc nổi loạn đã bị dập tắt.[22]

Mặc dù biết được tin tốt lành, Thiên hoàng Shōmu đã không quay lại Heijō-kyō ngay lập tức mà ở lại Kawaguchi cho đến ngày 4 tháng 12 [d 14] Ông tiếp tục hành trình về phía đông, rồi phía bắc qua tỉnh Mino và trở về phía tây dọc theo bờ hồ Biwa đến Kuni ở tỉnh Yamashiro (ngày nay ở Kizugawa) mà ông đã đến vào ngày 6 tháng 1 năm 741.[d 15] Các địa điểm đi dọc đường bao gồm Akasaka [31] 赤 坂 頓 宮; Suzuka ngày nay; 11 m. 14 d.: ngày 07 tháng 12), huyện Asake (朝明郡; ngày nay Yokkaichi;. 11 m 20 d.: 13 tháng 12), Ishiura [nb 6] (石占頓宮; ngày nay Tado;. 11 m 25 d.: 18 tháng 12), huyện Tagi (当伎郡; ngày nay Yoro;. 11 m 26 d.: ngày 19 tháng 12), Fuwa [nb 6] (不破頓宮; ngày nay Tarui;. 12 m 1 d.: ngày 23 tháng 12), Yokokawa [nb 6] (川 頓; hôm nay là Santō hoặc Maihara; ngày 12 tháng 6, ngày 28 tháng 12), Inukami [nb 6] (上 頓; hôm nay là Hikone;; ngày nay gần yokaichi; 12 m 9 d.: ngày 31 tháng 12), Yasu.[nb 6] (野洲頓宮; ngày nay Yasu hoặc Moriyama;. 12 m 10 d.: 1 tháng 1), Awazu [nb 6] (禾津頓宮; hôm nay Ōtsu; 12 m. 11 d. Ngày 1 tháng 1, Tamanoi [nb 6] (頓 宮; hôm nay Yamashina-ku, Kyoto; ngày 12 tháng 12 ngày 14 d. ).[32] Nằm giữa những ngọn đồi và gần một con sông phía bắc Nara, Kuni dễ dàng phòng thủ. Ngoài ra, khu vực này được liên kết với Tachibana no Moroe, trong khi Nara là một trung tâm của gia tộc Fujiwara.[33] Vào ngày 6 tháng 1 năm 741, [d 16] Shōmu tuyên bố một thủ đô mới tại Kuni-kyō.[8][9][11]

Hậu quả

Trong một mục của Shoku Nihongi, ngày 14 tháng 4 năm 741, [d 17] cho rằng quà cáp cống phẩm, người hầu, ngựa và kinh Phật giáo đã được giao cho đền thờ Hachiman và để xây dựng lên một ngôi chùa. Bender coi những lời đề nghị này là lời cảm tạ vì sự đàn áp cuộc nổi loạn của Hirotsugu.[23][24] Mặc dù không liên quan trực tiếp đến cuộc nổi loạn, sắc lệnh năm 741 của Thiên hoàng Shōmu, trong đó ông tuyên bố rằng các ngôi đền tỉnh được thành lập, là một dấu hiệu khác cho tình trạng của đất nước sau một số thiên tai.[4]

Cái chết của Fujiwara no Hirotsugu đánh dấu sự kết thúc của nhánh Shikike và sự khởi đầu của sự trỗi dậy của Nanke[3] Sau khi đàn áp cuộc bạo loạn, ảnh hưởng của Moroe tại triều đình đã lớn hơn.[34] Tuy nhiên, thông qua sức ảnh hưởng của gia tộc Fujiwara, Makibi và Genbō đã bị buộc phải rời khỏi triều đình và bị đày đến Kyushu, nơi mà Hirotsugu đã yêu cầu loại bỏ Genbō và ngay sau đó bắt đầu cuộc bạo loạn của ông ta. Genbō đã xây dựng ngôi đền Kwannon-ji vào năm 745 và Makibi trở thành thống đốc của tỉnh Chikuzen vào năm 759 và ngay sau đó là tỉnh Hizen trước khi ông được gửi đến Trung Quốc.[5] Genbō chết một năm sau đó vào năm 746 và được cho rằng ông đã giam giữ hồn ma của Hirotsugu- hành động chịu trách nhiệm cho cái chết của nhà sư.[21][35][36][37] Câu chuyện này đã được ghi nhận trong Shoku Nihongi như sau: "Truyền bá rằng hiệu ứng tâm linh của Fujiwara no Hirotsugu đã gây hại cho ông ta", và đây là lần đầu tiên đề cập đến Cúng cô hồn (goryō) trong lịch sử hoặc văn học Nhật Bản.[19] Herman Ooms nhìn thấy trong tin đồn này là "sự hỗ trợ rộng rãi (có lẽ giới hạn ở Nara và môi trường) cho một người chỉ trích chính phủ (Hirotsugu) và phải chịu hậu quả".[37]

Trong nửa sau của thế kỷ thứ 8, tinh thần của Hirotsugu, cùng với Hoàng tử Nagaya, được coi là đặc biệt gây rối.[38] Tại một thời điểm diễn ra dịch bệnh lao, được cho là gây ra bởi Goryo, Fujiwara no Mototsune, thuộc tộc bắcHokke,một nhánh họ của Fujiwara, đã tổ chức một nghi thức gọi là goryō'e vào ngày 10 tháng 6, 863 [d 18] tại Heian-kyō (Kyoto). Nghi thức này nhằm vào sáu linh hồn, bao gồm cả Fujiwara no Hirotsugu, vì mỗi người trong số họ đã trở thành một linh hồn rời đi do hành động của Fujiwara. Do đó, McMullin cho rằng sự kiện này được tổ chức nhằm hướng nỗi sợ hãi trong dân chúng đến sáu người đã chết này là kẻ thù của nhánh hokke của gia đình Fujiwara, gửi thông điệp rằng kẻ thù của hokke Fujiwara là kẻ thù của người dân.[38]

Mốc thời gian

  1. ^ Tenpyō 10 Tháng 1 (Tháng 1 / Tháng 2, 738): Tachibana no Moroe trở thành Bộ trưởng Quyền
  2. ^ Tenpyō 12 tháng 8, ngày 29 (24 tháng 9 năm 740): Hirotsugu yêu cầu sa thải Kibi no Makibi và Genbō
  3. ^ Tenpyō 12 tháng 9, ngày 3 (28 tháng 9, 740): Hirotsugu bắt đầu nổi loạn
  4. ^ Tenpyō 12 tháng 9, ngày 4 (29 tháng 9 năm 740): Chính phủ phái đội trinh sát Hayato
  5. ^ Tenpyō 12 tháng 9, ngày 24 (19 tháng 10 năm 740): Hirotsugu dừng chân tại trụ sở quận Oka
  6. ^ Tenpyō 12 tháng 9, ngày 24 (19 tháng 10 năm 740): Lực lượng chính phủ chiếm ba trại
  7. ^ Tenpyō 12 tháng 9, ngày 21/22 (16/17 tháng 10, 740): Gia cố quân đội chính phủ ở tỉnh Nagato
  8. ^ Tenpyō 12 tháng 9, ngày 25 (20 tháng 10 năm 740): Một số khuyết điểm của đồng minh Hirotsugu
  9. ^ Tenpyō 12 tháng 9, ngày 29 (24 tháng 10 năm 740): Hoàng đế gửi sắc lệnh để làm mất uy tín Hirotsugu
  10. ^ Tenpyō 12 tháng 10, ngày 9 (2 tháng 11 năm 740): Trận chiến tại sông Itabitsu
  11. ^ Tenpyō 12 tháng 10, ngày 23 (16 tháng 11 năm 740): Hirotsugu bị bắt
  12. ^ Tenpyō 12 tháng 10 (tháng 11, 740): Hoàng đế Shōmu rời thủ đô
  13. ^ Tenpyō 12 tháng 11, ngày 2 (25 tháng 11 năm 740): Hoàng đế Shōmu đến Kawaguchi
  14. ^ Tenpyō 12 tháng 11, ngày 11 (4 tháng 12 năm 740): Hoàng đế Shōmu rời Kawaguchi
  15. ^ Tenpyō 12 tháng 12, ngày 15 (6 tháng 1 năm 741): Hoàng đế Shōmu đến Kuni
  16. ^ Tenpyō 12 tháng 12, 15 ngày (6 tháng 1, 741): thủ đô mới tại Kuni-kyō
  17. ^ Tenpyō 13 tháng 3, ngày 24 (14 tháng 4 năm 741): quà tặng cho đền thờ Hachiman
  18. ^ Jōgan 5 tháng 5, ngày 20 (10 tháng 6 năm 863): goryō'e do Fujiwara no Mototsune tổ chức

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Một hội đồng thứ hai, được gọi là "Hội đồng các vấn đề Kami" (Jingi-kan) có địa vị gần như bằng nhau và bị buộc tội giám sát các giáo sĩ và nghi lễ của Thần đạo.
  2. ^ Fujiwara Four đã hỗ trợ khiến Hoàng tử Nagaya tự sát trước đó.
  3. ^ Since the text in classical Japanese in the Shoku Nihongi is somewhat ambiguous and contradictory, historians mistakenly believed that Genbō had seduced Empress Kōmyō or the wife of Fujiwara no Hirotsugu.[16][17]
  4. ^ This number varies widely in literature with some sources giving 10,000[3][27] and others 12,000 to 15,000.[1]
  5. ^ The traitor Hirotsugu was a wicked youth and came to do more and more evil as he grew up. His late father, the minister of ceremonial, wanted to disinherit him, but we intervened. However, when he slandered his family, we sent him away and were awaiting his reform. Now it comes to our ears that he has begun a ridiculous rebellion, causing suffering among the people. Because of his extreme disloyalty and lack of filial piety, the gods of heaven and earth will surely bring his destruction in a matter of days. Although we sent the above message to the provinces of Kyushu several days ago, it has come to our ears that the traitor captured the man assigned to distribute it and prevented him from informing the people. This time we have made several hundred copies of the message and have distributed them everywhere, so such interference will be impossible. Let all who see this rescript immediately return allegiance to the throne. Whoever slays Hirotsugu will be promoted to fifth rank and given other rewards, even if he is one of the rebels, and even if he is not currently a member of the official class. If by any chance the man who does the deed is himself killed, we promise the reward to his descendants. Come forth now, loyal subjects and faithful retainers. Our imperial army is advancing on Kyushu. [Shoku Nihongi 12/9/29][22]
  6. ^ a b c d e f g h i chỗ ở tạm thời được xây dựng để phù hợp với chuyến thăm của Hoàng gia

Tham khảo

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m Farris 1995
  2. ^ a b Sakamoto, Tarō (1991). The six national histories of Japan. UBC Press. tr. 109. ISBN 9780774803793. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  3. ^ a b c d e f Frédéric (2005), tr. 202.
  4. ^ a b c d e f g h i j k Brown & Hall 1993
  5. ^ a b c d e f g h Bohner, Hermann (1940). “Wake-no-Kiyomaro-den”. Monumenta Nipponica (bằng tiếng Đức). Sophia University. 3 (1): 255–257. doi:10.2307/2382412. JSTOR 2382412.
  6. ^ a b c Farris 1995, tr. 61
  7. ^ a b Totman 2000, tr. 64
  8. ^ a b Brown & Hall 1993, tr. 399
  9. ^ a b c d Shirane, Haruo (2008). Traditional Japanese Literature: An Anthology, Beginnings to 1600. Columbia University Press. tr. 104. ISBN 9780231136976. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  10. ^ a b c d Picken, Stuart D. B. (1994). Essentials of Shinto: an analytical guide to principal teachings. Greenwood Publishing Group. tr. 106–107. ISBN 9780313264313. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  11. ^ a b Brown & Hall 1993, tr. 43
  12. ^ Augustine 2004, tr. 71
  13. ^ a b c d Augustine (2004), tr. 72.
  14. ^ Titsingh 1834, tr. 70
  15. ^ Fogel, Joshua (1996). The literature of travel in the Japanese rediscovery of China, 1862-1945 . Stanford University Press. tr. 22. ISBN 0804725675. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2011. Like Genbō, Kibi no Makibi remained in China after the embassy ships returned to Japan, returning home himself at the same time as Genbo seventeen years later.
  16. ^ Ponsonby-Fane, Richard Arthur Brabazon (1959). The Imperial House of Japan. Dr. Richard Ponsonby Fane series. 3. Ponsonby Memorial Society. tr. 57. ISBN 9780231136976. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  17. ^ Matsunaga, Daigan; Matsunaga, Alicia (1996). Foundation of Japanese Buddhism: The Aristocratic Age. Foundation of Japanese Buddhism, Daigan Matsunaga. 1 (ấn bản thứ 5). Buddhist Books International. tr. 124. ISBN 9780914910268. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2012.
  18. ^ a b Ooms 2009
  19. ^ a b Schmidt, Petra (2002). Capital punishment in Japan. BRILL. tr. 12. ISBN 9789004124219. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  20. ^ a b c Martin, John H.; Martin, Phyllis G. (1993). Nara: a cultural guide to Japan's ancient capital. Tuttle Publishing. tr. 116. ISBN 9780804819145. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  21. ^ a b c Brinkley (1915), tr. 191.
  22. ^ a b c d e f Doe & Ōtomo 1982
  23. ^ a b c d e Totman (2000), tr. 73.
  24. ^ a b c d Bender, Ross (1979). “The Hachiman Cult and the Dōkyō Incident”. Monumenta Nipponica. Sophia University. 34 (2): 125–153. doi:10.2307/2384320. JSTOR 2384320.
  25. ^ Plutschow, Herbert E. (1990). Chaos and cosmos: ritual in early and medieval Japanese Literature. BRILL. tr. 209. ISBN 9789004086289. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  26. ^ Leinss, Gerhard; Lidin, Olof G. (1988). Japanische Geistesgeschichte. Otto Harrassowitz Verlag. tr. 150. ISBN 9783447028028. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  27. ^ Ebrey, Patricia; Walthall, Anne; Palais, James (2008). East Asia: A Cultural, Social, and Political History. Cengage Learning. tr. 122. ISBN 9780547005348. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  28. ^ a b Doe & Ōtomo 1982, tr. 101
  29. ^ Farris 1995, tr. 63
  30. ^ a b Titsingh 1834
  31. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên tongu
  32. ^ A Waka Anthology: Volume One: The Gem-Glistening Cup. Edwin Cranston (transl.). Stanford University Press. ngày 1 tháng 3 năm 1998. tr. 446. ISBN 978-0-8047-3157-7. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2012.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  33. ^ Doe & Ōtomo 1982, tr. 103
  34. ^ Ooms 2009, tr. 214
  35. ^ Ooms 2009, tr. 230
  36. ^ Ooms 2009, tr. 220
  37. ^ a b Ooms 2009, tr. 231
  38. ^ a b McMullin, Neil (1988). “On Placating the Gods and Pacifying the Populace: The Case of the Gion "Goryō" Cult”. History of Religions. The University of Chicago Press. 27 (3): 270–293. doi:10.1086/463123. JSTOR 1062279.

Tham khảo

Read other articles:

العلاقات الباربادوسية اللبنانية باربادوس لبنان   باربادوس   لبنان تعديل مصدري - تعديل   العلاقات الباربادوسية اللبنانية هي العلاقات الثنائية التي تجمع بين باربادوس ولبنان.[1][2][3][4][5] مقارنة بين البلدين هذه مقارنة عامة ومرجعية للدولتين: وجه...

 

Cet article est une ébauche concernant une école, Montréal et la France. Vous pouvez partager vos connaissances en l’améliorant (comment ?) selon les recommandations des projets correspondants. Collège international Marie de FranceHistoireFondation 1939StatutType Système français/québécoisRégime linguistique FrançaisDirecteur Proviseur: Bernard Luyckx Proviseure ajointe: Mélanie Cholet-ReusteDirectrice du primaire: Marie RoigDevise « Ensemble, prêts pour le monde 

 

Paris-Austerlitz StationsinformationOrtParisÖppnade18401969 (nedre plan)ArkitektPierre-Louis Renaud[1]TrafiktypPassagerartrafikKapacitetAntal spår25Spår under jord4FörbindelserÖvriga trafikslag Anslutande linjer Föregående station: St-Michel - Notre-DameEfterföljande station: Bibliothèque François MitterrandLägeKoordinater48°50′32″N 2°21′57″Ö / 48.84222°N 2.36583°Ö / 48.84222; 2.36583 Gare d'Austerlitz StationsinformationStadParis, Frankrike In...

Hormona liberadora de tirotropina Fórmula estructural de TRHEstructuras disponiblesPDB Buscar ortólogos: PDBe, RCSBIdentificadoresSímbolo TRH (HGNC: 12298)Identificadoresexternos OMIM: 275120 EBI: TRHGeneCards: Gen TRHUniProt: TRHLocus Cr. 3 q22.1-q21               Ontología génica Referencias: AmiGO / QuickGO OrtólogosEspecies Humano Ratón Entrez 7200 UniProt P20396 n/a RefSeq(ARNm) NM_007117 n/a vte[edita...

 

село Село Гулбоакамолд./рум. Hulboaca Основні дані 47°07′07″ пн. ш. 28°48′04″ сх. д. / 47.11861° пн. ш. 28.80111° сх. д. / 47.11861; 28.80111Координати: 47°07′07″ пн. ш. 28°48′04″ сх. д. / 47.11861° пн. ш. 28.80111° сх. д. / 47.11861; 28.80111Країна  Молдова...

 

Wappen des Freistaats Sachsen Wappen des Sächsischen Landtags Briefmarke (1994) Serie Wappen der Länder der Bundesrepublik Deutschland Das Landeswappen Sachsens wird wie folgt beschrieben: Das Landeswappen zeigt im neunmal von Schwarz und Gold geteilten Feld einen schrägrechten grünen Rautenkranz.[1] Inhaltsverzeichnis 1 Geschichte 2 Historische Wappen 3 Siehe auch 4 Weblinks 5 Einzelnachweise Geschichte Der Ursprung der Wappengestalt leitet sich von den Grafen von Ballenstedt aus...

Опис файлу Опис Пластинка 78 оборотов НАРОДНЫЙ АРТИСТ УССР И. С. ПАТОРЖИНСКИЙ Украинские народные песни Ногинский завод В 8619 - ГРИЦЮ, ГРИЦЮ ДО РОБОТИ (обработка В. Косенко) фортепиано Т. С. Полищук В 8620 - ОЙ, КУМ ДО КУМИ (обработка Я. Степового) фортепиано Т. С. Полищук Джерело htt...

 

Проєкт:Залізниця Стаття «Біла-Чортківська» є частиною вікіпроєкту «Залізниця», метою якого є створення та розвиток статей, присвячених залізниці і пов'язаних з нею тем. Ви можете допомогти проєкту, якщо приєднаєтесь до нього, поліпшите чи створите необхідні статті. Ви м...

 

1983 studio album by Rok MašinaIzrod na graniciStudio album by Rok MašinaReleased1983Recorded1982Genre Hard rock heavy metal Length22:57LabelJugodiskProducerRobert NemečekRok Mašina chronology Rok Mašina(1981) Izrod na granici(1983) Rok Mašina(2001) Izrod na granici (trans. Bastard on the Border) is a mini-album by Yugoslav hard rock and heavy metal band Rok Mašina, released in 1983. The album was released after the band disbanded in 1982, and featured a part of the material th...

Jivaka KomarabhaccaNama lainJivaka Kumarabhrata, Kumarabhuta, Raja Pengobatan [1]Informasi pribadiLahirRajagriha, MagadhaMeninggalRajagriha, MagadhaAgamaBuddhaKebangsaanMagadhaOrang tuaTidak diketahui (menurut naskah Pali), Pangeran Abhaya (naskah Dharmaguptaka), Raja Bimbisara (naskah tradisional lainnya) (ayah)Amrapali (ibu)AlmamaterTaksilaDikenal sebagaiRaja Pengobatan India, Pijat ThaiNama lainJivaka Kumarabhrata, Kumarabhuta, Raja Pengobatan [1]ProfesiTabibKedud...

 

This article includes a list of references, related reading, or external links, but its sources remain unclear because it lacks inline citations. Please help to improve this article by introducing more precise citations. (November 2018) (Learn how and when to remove this template message) You can help expand this article with text translated from the corresponding article in German. (September 2012) Click [show] for important translation instructions. View a machine-translated version of...

 

English barrister and politician Buszard in 1880 Marston Clarke Buszard Q.C. (13 July 1837 – 11 September 1921)[1] was an English barrister and a Liberal politician who sat in the House of Commons from 1880 to 1885. Buszard was born in Lutterworth. Leicestershire, the eldest son of Marston Buszard MD and his wife Sarah Catherine Clarke, eldest daughter of John Clarke of Peatling Hall who was High Sheriff of Leicestershire in 1820. Buszard was educated at Rugby School and at Trinity ...

Операция «Медведка 19»Основной конфликт: Ливанская война (1982) Гражданская война в Ливане Сирийский ЗРК «Квадрат», недалеко от шоссе Бейрут-Дамаск. Долина Бекаа (1982 год) Дата 9 июня 1982 года Место Ливан, Долина Бекаа Причина Активизация боевой деятельности сирийских бригад П...

 

Extinct subspecies of onager Syrian wild ass A Syrian wild ass in London Zoo, 1872 Conservation status Extinct (1927) (IUCN 3.1)[1] Scientific classification Domain: Eukaryota Kingdom: Animalia Phylum: Chordata Class: Mammalia Order: Perissodactyla Family: Equidae Genus: Equus Species: E. hemionus Subspecies: †E. h. hemippus Trinomial name †Equus hemionus hemippusI. Geoffroy, 1855 Synonyms Equus hemionus syriacus (Milne-Edwards, 1869) The Syrian wild ass (E...

 

鉄腕アトム > 鉄腕アトム (アニメ第2作) 2003–2004年作品「アストロボーイ・鉄腕アトム」とは異なります。 鉄腕アトム ジャンル ヒーロー、ロボットアニメ アニメ 原作 手塚治虫 監督 石黒昇 キャラクターデザイン 手塚治虫 メカニックデザイン 青井邦夫、錦織正宣、清水恵蔵、小和田良博 音楽 三枝成章 製作 日本テレビ、手塚プロダクション 放送局 日本テレビ...

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. Xin hãy giúp cải thiện bài vi...

 

Malaysian football club Football clubKuching CityFull nameKuching City Football ClubNickname(s)Il Gatto (The Cats)Short nameKCFCFounded2015; 8 years ago (2015), as Kuching FA 2021; 2 years ago (2021), as Kuching CityGroundSarawak State StadiumCapacity40,000Co-ownerFazzrudin Abdul Rahman Kamaludin AkilCEOIswandi Ali Hassan[1]Head coachAidil Sharin SahakLeagueMalaysia Super League2022Malaysia Premier League, 3rd of 10 (promoted)WebsiteClub website Cur...

 

A major contributor to this article appears to have a close connection with its subject. It may require cleanup to comply with Wikipedia's content policies, particularly neutral point of view. Please discuss further on the talk page. (January 2010) (Learn how and when to remove this template message) West 36th St The GEM Hotel brand is a neighborhood boutique hotel collection in Manhattan, New York City. The brand, which was launched in 2007, currently has three locations: The GEM Hotel Midto...

1918 film Which Woman?Newspaper publicity imageDirected byTod BrowningHarry A. PollardWritten byAnthony ColdewayBased onNobody's Brideby Evelyn CampbellStarringElla HallPriscilla DeanCinematographyJohn W. BrownDistributed byUniversal Film Manufacturing CompanyRelease date June 10, 1918 (1918-06-10) CountryUnited StatesLanguageSilent (English intertitles) Which Woman? is a 1918 American silent drama film directed by Tod Browning and Harry A. Pollard.[1] The film stars El...

 

Kemungkinan potret dari Timoteos Timoteos (bahasa Yunani: Τιμόθεος; wafat 354 SM) adalah seorang negarawan dan jenderal Yunani yang berjuang untuk memulihkan ambisi kekaisaran Athena dengan membuat Athena dominan di Liga Athena Kedua. Ia adalah putra dari jenderal Athena, Konon. Referensi Kutipan Sumber See Life by Cornelius Nepos; Diodorus Siculus xv., xvi.; Isocrates, De permutatione; Pseudo-Demosthenes, Adversus Timotheum; C. Rehdantz, Vitae Iphicratis, Chabriae, Timothei (1845...

 

Strategi Solo vs Squad di Free Fire: Cara Menang Mudah!